Quá liều
Ở người trưởng thành , một vài trường hợp quá liều lên đến 1.960 mg đã được báo cáo. Trong trường hợp quá liều, bệnh nhân nên được quan sát thận trọng các biến chứng xuất huyết hoặc các tác động bất lợi khác. Dữ liệu còn hạn chế trên trẻ em. Do sự hấp thu hạn chế, một hiệu ứng trần đã được dự đoán với không thể có sự gia tăng phơi nhiễm trung bình trong huyết tương tại liều điều trị tối đa 50 mg rivaroxaban hoặc hơn ở người trưởng thành, tuy nhiên không có sẵn dữ liệu về liều trên mức điều trị ở trẻ em.
Andexanet alfa là tác nhân đảo ngược chuyên biệt có sẵn đối kháng lại tác động dược lực học của rivaroxaban ở người trưởng thành, tuy nhiên chưa được thiết lập ở trẻ em.
Có thể xem xét việc sử dụng than hoạt tính để làm giảm sự hấp thu trong trường hợp quá liều rivaroxaban.
Cách xử trí khi xuất huyết
Nếu biến chứng xuất huyết xảy ra ở bệnh nhân đang sử dụng rivaroxaban, nên trì hoãn liều tiếp theo của rivaroxaban hoặc ngưng điều trị nếu thích hợp. Rivaroxaban có thời gian bán thải xấp xỉ 5-13 giờ. Việc điều trị nên được cá nhân hóa dựa trên mức độ nghiêm trọng và vị trí xuất huyết. Các biện pháp điều trị triệu chứng thích hợp có thể được dùng khi cần thiết như ép cơ học (cho chảy máu cam nghiêm trọng), phẫu thuật cầm máu với các thủ thuật kiểm soát sự xuất huyết, dùng dịch thay thế và hỗ trợ huyết động, các sản phẩm máu (hồng cầu lắng hoặc huyết tương tươi đông lạnh, phụ thuộc vào tình trạng thiếu máu hoặc rối loạn đông máu) hoặc tiểu cầu.
Nếu không thể kiểm soát xuất huyết bằng các biện pháp trên, nên xem xét sử dụng tác nhân đảo ngược chuyên biệt chất ức chế yếu tố Xa (andexanet alfa), là chất đối kháng tác động dược lực của rivaroxaban hoặc tác nhân đảo ngược chuyên biệt yếu tố tiền đông máu như phức hợp prothrombin đậm đặc (PCC), phức hợp prothrombin hoạt hóa đậm đặc (APCC) hoặc yếu tố tái tổ hợp VIIa (r-FVIIa). Tuy nhiên, các kinh nghiệm lâm sàng hiện nay còn rất giới hạn đối với việc sử dụng các thuốc này trên các bệnh nhân dùng rivaroxaban. Các khuyến cáo cũng dựa trên các dữ liệu phi lâm sàng giới hạn. Việc điều chỉnh liều của yếu tố tái tổ hợp VIIa nên được xem xét và xác định dựa trên sự cải thiện tình trạng xuất huyết. Tùy thuộc vào khả năng có sẵn tại chỗ, nên xem xét tư vấn với các chuyên gia đông máu trong trường hợp xuất huyết nghiêm trọng.
Protamin sulfat và vitamin K được dự đoán sẽ không làm ảnh hưởng đến hoạt tính chống đông của rivaroxaban. Kinh nghiệm vẫn còn giới hạn với acid tranexamic cũng như không có kinh nghiệm với acid aminocaproic và aprotinin trên các bệnh nhân sử dụng rivaroxaban. Không có cơ sở khoa học nào đối với lợi ích cũng như kinh nghiệm trong việc sử dụng desmopressin cầm máu toàn thân ở những bệnh nhân dùng rivaroxaban. Do khả năng liên kết cao với protein, rivaroxaban được dự đoán không thể thẩm tách.