Venlafaxine được chuyển hóa mạnh, chủ yếu thành chất chuyển hóa có hoạt tính, O-desmethylvenlafaxine (ODV). Thời gian bán thải trong huyết tương trung bình ± SD của venlafaxine và ODV lần lượt là 5 ± 2 giờ và 11 ± 2 giờ. Nồng độ venlafaxine và ODV ở trạng thái ổn định đạt được trong vòng 3 ngày sau khi điều trị đa liều bằng đường uống. Venlafaxine và ODV thể hiện dược động học tuyến tính trong phạm vi liều từ 75 mg đến 450 mg/ngày.
Hấp thu
Ít nhất 92% venlafaxine được hấp thu sau khi uống liều đơn venlafaxine giải phóng tức thời. Sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc từ 40% đến 45% do chuyển hóa trước khi nhập vào tuần hoàn chung. Sau khi uống liều venlafaxine phóng thích tức thời, nồng độ đỉnh trong huyết tương của venlafaxine và ODV lần lượt đạt được trong 2 và 3 giờ.
Sau khi sử dụng liều venlafaxine phóng thích kéo dài, nồng độ đỉnh trong huyết tương của venlafaxine và ODV đạt được tương ứng trong vòng 5,5 giờ và 9 giờ. Khi dùng liều venlafaxine hàng ngày bằng nhau dưới dạng viên nén phóng thích tức thời hoặc viên nén bao phim phóng thích kéo dài, thì liều phóng thích kéo dài cung cấp tốc độ hấp thu chậm hơn, nhưng cùng mức độ hấp thu so với viên nén phóng thích tức thời. Thức ăn không ảnh hưởng đến sinh khả dụng của venlafaxine và ODV.
Phân bố
Venlafaxine và ODV ở nồng độ điều trị tối thiểu liên kết với protein huyết tương người (tương ứng là 27% và 30%). Thể tích phân bố của venlafaxine ở trạng thái ổn định là 4,4 ± 1,6 L/kg sau khi tiêm tĩnh mạch.
Chuyển hóa
Venlafaxine trải qua quá trình chuyển hóa mạnh ở gan. Các nghiên cứu in vitro và in vivo chỉ ra rằng venlafaxine được biến đổi sinh học thành chất chuyển hóa có hoạt tính chính là ODV bởi CYP2D6. Các nghiên cứu in vitro và in vivo chỉ ra rằng venlafaxine được chuyển hóa thành chất chuyển hóa phụ, ít hoạt tính hơn, N-desmethylvenlafaxine, bởi CYP3A4. Các nghiên cứu in vitro và in vivo chỉ ra rằng venlafaxine là chất ức chế yếu CYP2D6. Venlafaxine không ức chế CYP1A2, CYP2C9 hoặc CYP3A4.
Thải trừ
Venlafaxine và các chất chuyển hóa của nó được thải trừ chủ yếu qua thận. Khoảng 87% liều venlafaxine được thải trừ trong nước tiểu trong vòng 48 giờ dưới dạng venlafaxine không đổi (5%), ODV không liên hợp (29%), ODV liên hợp (26%), hoặc các chất chuyển hóa phụ không có hoạt tính khác (27%). Độ thanh thải ở trạng thái ổn định trong huyết tương trung bình ± SD của venlafaxine và ODV lần lượt là 1,3 ± 0,6 L/h/kgvà 0,4 ± 0,2 L/h/kg.
Đối tượng đặc biệt
Tuổi và giới tính: Tuổi và giới tính của bệnh nhân không ảnh hưởng đáng kể đến dược động học của venlafaxine và ODV.
Chất chuyển hóa mạnh/kém qua CYP2D6: Nồng độ venlafaxine trong huyết tương ở những người chuyển hóa kém qua CYP2D6 cao hơn những người chuyển hóa bình thường. Vì tổng nồng độ đỉnh trong huyết tương (AUC) của venlafaxine và ODV là tương tự nhau ở những người chuyển hóa kém và chuyển hóa bình thường, nên không cần chế độ dùng thuốc venlafaxine khác nhau cho hai nhóm này.
Suy gan: Ở đối tượng Child-Pugh A (suy gan nhẹ) và Child-Pugh B (suy gan vừa), thời gian bán thải của venlafaxine và ODV được kéo dài hơn so với đối tượng bình thường. Sự thanh thải đường uống của cả venlafaxine và ODV đều giảm. Một mức độ lớn của sự dao động giữa các cá thể đã được ghi nhận. Dữ liệu còn hạn chế ở bệnh nhân suy gan nặng.
Suy thận: Ở bệnh nhân thẩm tách máu, thời gian bán thải của venlafaxine kéo dài khoảng 180% và độ thanh thải giảm khoảng 57% so với người bình thường, trong khi thời gian bán thải của ODV kéo dài khoảng 142% và độ thanh thải giảm khoảng 56%. Cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận nặng và bệnh nhân cần thẩm tách máu.
- Trang chủ
- Tìm thông tin thuốc
- Xác định tên viên thuốc
- Tìm công ty dược phẩm
- Bệnh lý
- Tin tức & Cập nhật y khoa
Other Services
Country
Account