Hấp thu:
Pravastatin được dùng bằng đường uống ở dạng có hoạt tính. Nó được hấp thụ nhanh; nồng độ đỉnh trong huyết thanh đạt được từ 1-1,5 giờ sau khi uống. Trung bình 34% thuốc qua đường uống được hấp thu với sinh khả dụng tuyệt đối là 17%.
Thức ăn trong đường tiêu hóa làm giảm sinh khả dụng của thuốc này, nhưng tác dụng hạ cholesterol của pravastatin không thay đổi cho dù uống cùng hay không với thức ăn.
Sau khi hấp thu, 66% pravastatin bị chuyển hóa lần đầu qua gan, nơi đầu tiên thuốc có tác dụng và là nơi đầu tiên tổng hợp cholesterol và thanh thải LDL-cholesterol. Các nghiên cứu in vitro cho thấy pravastatin được vận chuyển vào tế bào gan ít hơn các tế bào khác. Đối với sự chuyển hóa lần đầu chủ yếu qua gan, nồng độ pravastatin trong huyết tương chỉ có giá trị hạn chế trong việc dự đoán tác dụng hạ lipid máu của thuốc.
Nồng độ thuốc trong huyết tương tỷ lệ với liều đưa vào.
Phân bố:
Khoảng 50% pravastatin trong tuần hoàn được gắn với protein huyết tương. Thể tích phân bố khoảng 0,5 L/kg. Một lượng nhỏ pravastatin đi vào sữa mẹ.
Chuyển hóa và thải trừ:
Pravastatin không được chuyển hóa đáng kể bởi cytochrom P450 cũng không là một cơ chất hay chất ức chế p-glycoprotein nhưng lại là cơ chất của các protein vận chuyển khác.
Sau khi uống, 20% liều ban đầu được thải trừ qua nước tiểu và 70% qua phân. Thời gian bán thải trong huyết tương của pravastatin đường uống là 1,5 đến 2 giờ.
Sau khi tiêm tĩnh mạch, 47% liều dùng được thải trừ qua thận và 53% chuyển hóa và thải trừ qua đường mật. Sản phẩm chuyển hóa chính của pravastatin là 3-α-hydroxyl isomeric. Chất chuyển hóa này có hoạt tính ức chế HMG-CoA reductase bằng 1/10 đến 1/40 so với hợp chất ban đầu.
Độ thanh thải toàn thân của pravastatin là 0,8 L/h/kg và độ thanh thải qua thận là 0,38 L/h/kg cho thấy chủ yếu thải trừ qua ống thận.
Đối tượng có nguy cơ:
Trẻ em: Giá trị Cmax và AUC trung bình ở trẻ em tính gộp trên độ tuổi và giới tính tương tự như các giá trị quan sát được ở người lớn sau khi uống 1 liều 20 mg.
Suy gan: Tiếp xúc toàn thân của pravastatin và các chất chuyển hóa ở bệnh nhân xơ gan do rượu tăng khoảng 50% so với bệnh nhân có chức năng gan bình thường.
Suy thận: Không có sự thay đổi đáng kể quan sát được ở bệnh nhân suy thận nhẹ. Tuy nhiên, suy thận vừa và nặng có thể dẫn đến tăng gấp hai lần tiếp xúc đối với pravastatin và các chất chuyển hóa.