Đáng chú ý
Lypstaplus

Lypstaplus Tác dụng không mong muốn

Nhà sản xuất:

Medreich Limited (Unit 3)

Nhà tiếp thị:

Abbott
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Tác dụng không mong muốn
Tóm tắt hồ sơ về an toàn
Các phản ứng bất lợi được quan sát thấy với rosuvastatin thường nhẹ và thoáng qua. Trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, dưới 4% bệnh nhân điều trị bằng rosuvastatin đã được rút khỏi nghiên cứu do các phản ứng bất lợi.
Trong các nghiên cứu lâm sàng với thời gian lên đến 112 tuần, ezetimib 10 mg/ngày được dùng đơn độc ở 2.396 bệnh nhân, hoặc với statin ở 11.308 bệnh nhân hoặc với fenofibrat ở 185 bệnh nhân. Các phản ứng bất lợi thường nhẹ và thoáng qua. Tỷ lệ chung của các tác dụng phụ là tương tự giữa ezetimib và giả dược. Tương tự, tỷ lệ ngừng điều trị do các phản ứng bất lợi là tương đương giữa ezetimib và giả dược.
Theo dữ liệu hiện có, 1.200 bệnh nhân đã sử dụng phối hợp rosuvastatin và ezetimib trong các nghiên cứu lâm sàng. Như được báo cáo trong y văn đã công bố, các biến cố bất lợi thường gặp nhất liên quan đến điều trị phối hợp rosuvastatin-ezetimib ở bệnh nhân tăng cholesterol máu là tăng transaminase gan, vấn đề về tiêu hóa và đau cơ. Đây là những tác dụng không mong muốn đã biết của các hoạt chất này. Tuy nhiên, không thể loại trừ tương tác dược lực học, về mặt tác dụng bất lợi, giữa rosuvastatin và ezetimib (xem phần Dược lực học).
Bảng liệt kê các phản ứng bất lợi
Tần suất của các biến cố bất lợi được sắp xếp theo các loại sau: Thường gặp (≥ 1/100 đến < 1/10); Ít gặp (≥ 1/1.000 đến < 1/100); Hiếm gặp (≥ 1/10.000 đến < 1/1.000); Rất hiếm gặp (< 1/10.000); Không rõ (không thể ước tính từ các dữ liệu hiện có).
- xem Bảng 3.

Image from Drug Label Content

Cũng như các thuốc ức chế HMG-CoA reductase khác, tỷ lệ phản ứng bất lợi của thuốc có xu hướng phụ thuộc liều dùng.
Tác dụng trên thận: Protein niệu, được phát hiện bằng xét nghiệm que nhúng và hầu hết có nguồn gốc ở ống thận, đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng rosuvastatin. Sự thay đổi về protein trong nước tiểu từ không có hoặc dạng vết đến ++ trở lên đã được quan sát thấy ở < 1% bệnh nhân tại một thời điểm nào đó trong khi điều trị với liều 10 mg và 20 mg, và ở khoảng 3% bệnh nhân điều trị với liều 40 mg. Một sự tăng nhẹ về sự thay đổi từ không có hoặc dạng vết đến + đã được quan sát thấy với liều 20 mg. Trong hầu hết các trường hợp, protein niệu giảm hoặc biến mất một cách tự nhiên khi tiếp tục điều trị. Xem xét dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng và kinh nghiệm hậu mãi cho đến nay vẫn chưa xác định được mối quan hệ nhân quả giữa protein niệu và bệnh thận cấp tính hoặc tiến triển. 
Tiểu máu đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng rosuvastatin và dữ liệu thử nghiệm lâm sàng cho thấy sự xuất hiện thấp.
Tác dụng trên cơ xương: Tác dụng trên cơ xương, ví dụ đau cơ, bệnh cơ (bao gồm viêm cơ), và hiếm gặp tiêu cơ vân, có và không có suy thận cấp đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị bằng rosuvastatin với tất cả các liều và đặc biệt với liều > 20 mg.
Sự tăng nồng độ CK liên quan đến liều dùng đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng rosuvastatin; phần lớn các trường hợp là nhẹ, không có triệu chứng và thoáng qua. Nếu nồng độ CK tăng cao (> 5 lần giới hạn trên của mức bình thường (ULN)), nên ngừng điều trị (xem phần Cảnh báo và thận trọng).
Tác dụng trên gan: Cũng như với các thuốc ức chế HMG-CoA reductase, sự tăng transaminase liên quan đến liều dùng đã được quan sát thấy ở một số ít bệnh nhân dùng rosuvastatin; phần lớn các trường hợp là nhẹ, không có triệu chứng và thoáng qua.
Các biến cố bất lợi sau đây đã được báo cáo với một số statin:
• Rối loạn chức năng tình dục
• Các trường hợp ngoại lệ về bệnh phổi mô kẽ, đặc biệt là khi điều trị dài hạn
Tỷ lệ báo cáo về tiêu cơ vân, các biến cố nghiêm trọng về thận và các biến cố nghiêm trọng về gan (bao gồm chủ yếu là tăng transaminase gan) cao hơn ở liều rosuvastatin 40 mg.
Các giá trị xét nghiệm
Trong các thử nghiệm lâm sàng đơn trị liệu có đối chứng, tỷ lệ tăng transaminase huyết thanh quan trọng trên lâm sàng (ALT và/hoặc AST ≥ 3 lần ULN, liên tiếp) là tương tự giữa ezetimib (0,5%) và giả dược (0,3%). Trong các thử nghiệm sử dụng đồng thời, tỷ lệ là 1,3% ở những bệnh nhân điều trị bằng ezetimib đồng thời với statin và 0,4% ở những bệnh nhân điều trị bằng statin đơn độc. Những sự tăng này thường không có triệu chứng, không liên quan đến ứ mật và trở về mức ban đầu sau khi ngừng điều trị hoặc tiếp tục điều trị (xem phần Cảnh báo và thận trọng).
Trong các thử nghiệm lâm sàng, CPK > 10 lần ULN đã được báo cáo đối với 4 trong số 1.674 bệnh nhân (0,2%) dùng ezetimib đơn độc so với 1 trong số 786 bệnh nhân (0,1%) dùng giả dược, và đối với 1 trong số 917 bệnh nhân (0,1%) dùng đồng thời ezetimib và statin so với 4 trong số 929 bệnh nhân (0,4%) dùng statin đơn độc. Không có quá nhiều trường hợp bệnh cơ hoặc tiêu cơ vân liên quan đến ezetimib so với nhóm đối chứng liên quan (dùng giả dược hoặc statin đơn độc) (xem phần Cảnh báo và thận trọng).
Nhóm bệnh nhân trẻ em
Độ an toàn và hiệu quả của Lypstaplus ở trẻ em dưới 18 tuổi chưa được xác định (xem phần Dược lực học).
Rosuvastatin: Tăng creatin kinase > 10 lần ULN và các triệu chứng cơ sau khi tập luyện hoặc tăng hoạt động thể chất đã được quan sát thấy thường xuyên hơn trong một thử nghiệm lâm sàng 52 tuần ở trẻ em và thiếu niên so với người lớn. Ở các khía cạnh khác, hồ sơ về an toàn của rosuvastatin tương tự ở trẻ em và thiếu niên so với người lớn.
Ezetimib: Bệnh nhân trẻ em (từ 6-17 tuổi)
Trong một nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân trẻ em (từ 6-10 tuổi) bị tăng cholesterol máu có tính gia đình hoặc không có tính gia đình dị hợp tử (n = 138), tăng ALT và/hoặc AST (≥ 3 lần ULN, liên tiếp) đã được quan sát thấy ở 1,1% (1 bệnh nhân) ở những bệnh nhân dùng ezetimib so với 0% ở nhóm dùng giả dược. Không có tăng CPK (≥ 10 lần ULN). Không có trường hợp bệnh cơ nào được báo cáo.
Trong một nghiên cứu riêng biệt bao gồm các bệnh nhân thiếu niên (từ 10-17 tuổi) bị tăng cholesterol máu có tính gia đình dị hợp tử (n = 248), tăng ALT và/hoặc AST (≥ 3 lần ULN, liên tiếp) đã được quan sát thấy ở 3% (4 bệnh nhân) ở những bệnh nhân dùng ezetimib/simvastatin so với 2% (2 bệnh nhân) ở nhóm dùng đơn trị liệu bằng simvastatin; những số liệu này tương ứng là 2% (2 bệnh nhân) và 0% đối với tăng CPK (≥ 10 lần ULN). Không có trường hợp bệnh cơ nào được báo cáo. Những thử nghiệm này không phù hợp để so sánh các phản ứng bất lợi của thuốc hiếm gặp.
Báo cáo các phản ứng bất lợi nghi ngờ
Báo cáo các phản ứng bất lợi nghi ngờ sau khi thuốc lưu hành là điều quan trọng. Điều này cho phép theo dõi liên tục cân bằng lợi ích/nguy cơ của thuốc. Các chuyên viên y tế được yêu cầu báo cáo bất kỳ phản ứng bất lợi nghi ngờ nào qua hệ thống báo cáo quốc gia được liệt kê trong Phụ lục V.
Đăng ký miễn phí để được tiếp tục đọc
Thư viện tin tức y khoa, tài liệu lâm sàng và đào tạo liên tục hàng đầu Châu Á
Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập