Điều trị:
+ Người lớn:
• Việc điều trị phải được bắt đầu bằng phác đồ dùng voriconazole dạng truyền tĩnh mạch hoặc dạng uống với liều tấn công để nồng độ voriconazole trong huyết tương của ngày thứ 1 đạt tới trạng thái ổn định. Trên cơ sở sinh khả dụng đường uống cao (96%) (xem mục Dược lực học), nên có thể chuyển đổi giữa voriconazole dạng truyền tĩnh mạch và dạng uống khi có chỉ định lâm sàng.
- xem Bảng 1.

• Thời gian điều trị: thời gian điều trị nên càng ngắn càng tốt tùy thuộc vào đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân. Cần phải đánh giá cẩn thận giữa lợi ích và nguy cơ nếu dùng voriconazole trên 180 ngày (6 tháng) (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Dược lực học).
• Chỉnh liều:
» Nếu đáp ứng lâm sàng không đạt, liều duy trì khi dùng dạng uống có thể tăng lên thành 300 mg, 2 lần/ngày (hoặc 150 mg, 2 lần/ngày đối với bệnh nhân dưới 40 kg).
» Nếu bệnh nhân không thể dung nạp liều này, có thể giảm liều duy trì từng nấc 50 mg cho đến liều 200 mg, 2 lần/ngày (hoặc 100 mg, 2 lần/ngày đối với bệnh nhân dưới 40 kg).
+ Trẻ em (2-dưới 12 tuổi) và thanh thiếu niên (12-14 tuổi và < 50 kg):
- xem Bảng 2.

• Chỉnh liều:
» Nếu đáp ứng lâm sàng không đạt, có thể tăng từng nấc 1 mg/kg (hoặc từng nấc 50 mg nếu ban đầu đã sử dụng liều tối đa 35 0mg). Nếu bệnh nhân không thể dung nạp liều này, giảm từng nấc 1 mg/kg (hoặc từng nấc 50 mg nếu ban đầu đã sử dụng liều tối đa 350 mg).
» Việc sử dụng voriconazole cho trẻ em từ 2-dưới 12 tuổi bị suy gan hoặc suy thận chưa được nghiên cứu (xem mục Tác dụng không mong muốn và Dược động học).
+ Các thanh thiếu niên khác (12-14 tuổi và ≥ 50 kg; 15-17 tuổi): dùng như liều người lớn.
Dự phòng ở người lớn và trẻ em: nên bắt đầu dự phòng vào ngày cấy ghép và có thể dùng tối đa 100 ngày. Thời gian dự phòng nên càng ngắn càng tốt tùy thuộc vào nguy cơ nhiễm nấm xâm lấn tiến triển (IFI), được xác định bởi giảm bạch cầu trung tính hoặc ức chế miễn dịch. Chỉ có thể dùng voriconazole tối đa 180 ngày sau khi cấy ghép trong trường hợp bệnh nhân vẫn bị ức chế miễn dịch hoặc bị bệnh mảnh ghép chống lại chủ (GvHD) (xem mục Dược lực học).
+ Liều dùng: liều dự phòng giống liều điều trị theo từng nhóm tuổi đã liệt kê ở trên.
+ Thời gian dự phòng:
• Tính an toàn và hiệu quả của việc sử dụng voriconazole trên 180 ngày chưa được nghiên cứu trên lâm sàng.
• Cần đánh giá cẩn thận giữa lợi ích và nguy cơ nếu sử dụng voriconazole trên 180 ngày (6 tháng) để dự phòng (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Dược lực học).
Các hướng dẫn dưới đây áp dụng cho cả điều trị và dự phòng:
+ Chỉnh liều: trường hợp sử dụng voriconazole để dự phòng, không khuyến cáo chỉnh liều khi thiếu hiệu quả hoặc xuất hiện các tác dụng không mong muốn liên quan đến điều trị. Nếu xuất hiện các tác dụng không mong muốn liên quan đến điều trị, ngưng sử dụng voriconazole và sử dụng các thuốc kháng nấm thay thế (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tác dụng không mong muốn).
+ Chỉnh liều trong trường hợp phối hợp thuốc:
• Có thể dùng đồng thời phenytoin với voriconazole nếu liều duy trì voriconazole dạng uống tăng từ 200 mg thành 400 mg, 2 lần/ngày (từ 100 mg thành 200 mg, 2 lần/ngày đối với bệnh nhân dưới 40 kg) (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tương tác).
• Nếu có thể, nên tránh kết hợp voriconazole với rifabutin. Tuy nhiên, nếu cần phải phối hợp, liều duy trì voriconazole dạng uống có thể tăng từ 200 mg thành 350 mg, 2 lần/ngày (từ 100 mg thành 200 mg, 2 lần/ngày đối với bệnh nhân dưới 40 kg) (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tương tác).
• Có thể dùng đồng thời efavirenz với voriconazole nếu liều duy trì voriconazole tăng lên thành 400 mg mỗi 12 giờ và liều efavirenz giảm 50%, tức là 300 mg, 1 lần/ngày. Khi ngưng voriconazole, nên dùng lại liều khởi đầu của efavirenz (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tương tác).
+ Người cao tuổi: không cần chỉnh liều (xem mục Dược động học).
+ Bệnh nhân suy thận:
• Dược động học của voriconazole dạng uống không bị ảnh hưởng bởi suy thận. Do đó, không cần chỉnh liều cho bệnh nhân suy thận từ nhẹ đến nặng khi dùng dạng uống (xem mục Dược động học).
• Voriconazole được thẩm tách máu với độ thanh lọc 121 mL/phút. Một lần thẩm tách máu 4 giờ không loại bỏ đủ lượng voriconazole tới mức để phải chỉnh liều.
+ Bệnh nhân suy gan:
• Khuyến cáo dùng liều tấn công voriconazole chuẩn nhưng liều duy trì được giảm một nửa ở bệnh nhân xơ gan nhẹ đến trung bình (Child-Pugh A và B) (xem mục Dược động học).
• Voriconazole chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân xơ gan mãn tính nặng (Child-Pugh C).
• Dữ liệu về tính an toàn của voriconazole ở những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm chức năng gan bất thường [aspartate transaminase (AST), alanine transaminase (ALT), phosphatase kiềm (ALP), hoặc bilirubin toàn phần lớn hơn 5 lần so với giới hạn trên của bình thường] còn hạn chế.
• Voriconazole có liên quan đến sự tăng các chỉ số xét nghiệm chức năng gan và tăng các dấu hiệu lâm sàng của tổn thương gan, như vàng da, và chỉ được sử dụng ở bệnh nhân suy gan nặng nếu lợi ích vượt trội nguy cơ tiềm ẩn. Bệnh nhân suy gan nặng phải được theo dõi cẩn thận về độc tính của thuốc (xem mục Tác dụng không mong muốn).
+ Trẻ em dưới 2 tuổi: tính an toàn và hiệu quả của voriconazole ở trẻ em dưới 2 tuổi chưa được thiết lập.
Cách dùng:
Người lớn và thanh thiếu niên ≥ 12 tuổi: uống GALFEND ít nhất một giờ trước hoặc sau khi ăn.
Trẻ em từ 2-dưới 12 tuổi: nên sử dụng chế phẩm dạng hỗn dịch.