Hấp thu
Sau khi uống ở trạng thái nhịn ăn, vildagliptin được hấp thu nhanh chóng, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được sau 1,7 giờ. Thức ăn làm thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương lên đến 2,5 giờ, nhưng không làm thay đổi AUC. Dùng vildagliptin với thức ăn làm giảm Cmax 19%, tuy nhiên không có ý nghĩa lâm sàng. Do đó có thể uống vildagliptin cùng hoặc không cùng thức ăn. Sinh khả dụng tuyệt đối là 85%.
Phân bố
Vildagliptin liên kết thấp với protein huyết tương (9,3%) và vildagliptin phân bố đều giữa huyết tương và hồng cầu. Thể tích phân bố trung bình của vildagliptin ở trạng thái ổn định sau khi tiêm tĩnh mạch là 71 lít, cho thấy có sự phân bố ở ngoài mạch máu.
Chuyển hóa
Chuyển hóa là con đường loại bỏ chính cho vildagliptin ở người, chiếm 69% liều dùng. Chất chuyển hóa chính (LAY151) không có hoạt tính dược lý và là sản phẩm thủy phân của cyano nhóm chức, chiếm 57% liều dùng, tiếp theo là glucuronid (BQS867) và các sản phẩm thủy phân amid (4% liều dùng). Dữ liệu in vitro trong tế bào thận của người cho thấy thận có thể là một trong những cơ quan chính góp phần vào sự thủy phân của vildagliptin thành chất chuyển hóa không hoạt tính chính của nó, LAY151. DPP – 4 góp một phần vào quá trình thủy phân vildagliptin dựa trên nghiên cứu in vivo sử dụng chuột bị thiếu DPP – 4. Vildagliptin không được chuyển hóa bởi enzyme CYP 450. Theo đó, độ thanh thải do trao đổi chất của vildagliptin có thể không bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng đồng thời với các thuốc là chất ức chế và/hoặc cảm ứng CYP 450. Các nghiên cứu in vitro đã chứng minh rằng vildagliptin không ức chế/cảm ứng enzym CYP 450. Do đó, vildagliptin không gây ảnh hưởng đến độ thanh thải do trao đổi chất của các thuốc sử dụng đồng thời được chuyển hóa bởi CYP 1A2, CYP 2C8, CYP 2C9, CYP 2C19, CYP 2D6, CYP 2E1 hoặc CYP 3A4/5.
Thải trừ
Sau khi uống vildagliptin 14C, khoảng 85% liều dùng được bài tiết vào nước tiểu và 15% được tìm thấy trong phân. Sự bài tiết qua thận của vildagliptin dạng không biến đổi chiếm 23% liều dùng sau khi uống. Sau khi tiêm tĩnh mạch cho các đối tượng khỏe mạnh, độ thanh thải của thận và huyết tương toàn phần của vildagliptin lần lượt là 41 và 13 lít/giờ. Thời gian bán thải trung bình sau khi tiêm tĩnh mạch là khoảng 2 giờ. Thời gian bán thải sau khi uống là khoảng 3 giờ.
Tuyến tính/phi tuyến tính
Cmax của vildagliptin và AUC tăng theo tỷ lệ xấp xỉ với liều dùng trong khoảng liều điều trị.
Đặc tính dược động học trên nhóm đối tượng đặc biệt
Giới tính: Không có sự khác biệt lâm sàng về dược động học của vildagliptin khi quan sát giữa các đối tượng nam và nữ khỏe mạnh với độ tuổi và chỉ số khối cơ thể (BMI) khác nhau. Sự ức chế DPP – 4 bởi vildagliptin không bị ảnh hưởng bởi giới tính.
Người già: Ở những người già khỏe mạnh (≥ 70 tuổi), phơi nhiễm toàn thân của vildagliptin (100 mg x 1 lần/ngày) tăng 32%, nồng độ đỉnh trong huyết tương tăng 18% so với các đối tượng khỏe mạnh trẻ tuổi (18 – 40 tuổi). Tuy nhiên, những thay đổi này không được coi là có liên quan về mặt lâm sàng. Sự ức chế DPP – 4 bởi vildagliptin không bị ảnh hưởng bởi tuổi tác.
Bệnh nhân suy gan: Tác động của suy giảm chức năng gan lên dược động học của vildagliptin đã được nghiên cứu ở những bệnh nhân suy gan nhẹ, trung bình và nặng dựa trên điểm Child – Pugh (từ 6 đến 12) so với các đối tượng khỏe mạnh. Phơi nhiễm với vildagliptin sau một liều duy nhất ở bệnh nhân suy gan nhẹ và trung bình đã giảm lần lượt 20% và 8%, trong khi ở bệnh nhân suy gan nặng đã tăng 22%. Sự thay đổi lớn nhất (tăng hoặc giảm) của phơi nhiễm với vildagliptin là ~ 30%, không được coi là có liên quan về mặt lâm sàng. Không có mối tương quan giữa mức độ nghiêm trọng của bệnh gan và những thay đổi trong phơi nhiễm với vildagliptin.
Bệnh nhân suy thận: Một thử nghiệm nhãn mở, đa liều được tiến hành để đánh giá dược động học ở liều điều trị thấp hơn của vildagliptin (50 mg x 1 lần/ngày) ở những bệnh nhân suy thận mãn tính, mức độ suy thận được xác định bằng độ thanh thải creatinin (nhẹ: 50 đến < 80 mL/phút, vừa phải: 30 đến < 50 mL/phút và nặng: < 30 mL/phút) so với nhóm đối chứng khỏe mạnh.
AUC của vildagliptin tăng trung bình 1,4, 1,7 và 2 lần ở bệnh nhân suy thận nhẹ, trung bình và nặng, so với các đối tượng khỏe mạnh. AUC của các chất chuyển hóa LAY151 và BQS867 tăng trung bình khoảng 1,5, 3 và 7 lần. Dữ liệu hạn chế từ bệnh nhân mắc bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) cho thấy sự phơi nhiễm với vildagliptin tương tự như ở bệnh nhân suy thận nặng, nồng độ LAY151 cao gấp 2 – 3 lần so với bệnh nhân suy thận nặng.
Chạy thận nhân tạo loại bỏ một lượng rất hạn chế vildagliptin (3% trong một lần chạy thận nhân tạo 3 – 4 giờ bắt đầu từ 4 tiếng sau khi uống).