Cách dùng
Chỉ nên sử dụng sugammadex qua đường tĩnh mạch với một liều duy nhất tiêm trực tiếp. Liều trực tiếp nên được tiêm nhanh, trong vòng 10 giây với tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc vào một đường truyền tĩnh mạch. Sugammadex chỉ được sử dụng dưới dạng tiêm trực tiếp một liều duy nhất trong các thử nghiệm lâm sàng.
Nếu sử dụng thuốc qua đường truyền đã sử dụng với các thuốc khác, điều quan trọng là phải xả trôi đường truyền [như với natri clorid 9 mg/mL (dung dịch 0,9%)] giữa lần dùng sugammadex và các thuốc khác đã biết tương kỵ với sugammadex hoặc các thuốc chưa biết có tương thích với sugammadex hay không.
Có thể tiêm sugammadex vào đường truyền đang sử dụng để truyền tĩnh mạch các dung dịch sau: natri clorid 9 mg/mL (dung dịch 0,9%), glucose 50 mg/mL (5%), natri clorid 4,5 mg/mL (0,45%) và glucose 25 mg/mL (2,5%), dung dịch Ringers lactat, dung dịch Ringers, glucose 50 mg/mL (5%) trong natri clorid 9 mg/mL (0,9%).
Khi dùng cho bệnh nhi có thể pha loãng thuốc bằng dung dịch natri clorid 9 mg/mL (dung dịch 0,9%) để tạo thành nồng độ 10 mg/mL (xem mục Hạn dùng).
Nên loại bỏ phần thuốc không sử dụng hoặc chất thải tuân theo quy định của từng nơi.
Liều dùng
Sugammadex chỉ nên được dùng bởi hoặc dưới sự giám sát của bác sĩ chuyên khoa gây mê. Nên sử dụng kỹ thuật theo dõi thần kinh cơ thích hợp để theo dõi sự hồi phục của phong bế thần kinh cơ. Như thực hành thông thường sau khi gây mê sử dụng phong bế thần kinh cơ, cần theo dõi bệnh nhân ngay trong giai đoạn hậu phẫu để phát hiện các biểu hiện bất thường bao gồm tái xuất phong bế (xem mục Cảnh báo và thận trọng). Nên theo dõi các dấu hiệu phong bế ở những bệnh nhân được dùng đường tiêm một vài thuốc trong vòng 6 giờ trước khi dùng sugammadex mà có thể gây tương tác thay thế (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tương tác, Tương kỵ).
Liều đề nghị của sugammadex phụ thuộc vào mức độ hóa giải phong bế thần kinh cơ.
Liều đề nghị này không phụ thuộc vào phương pháp gây mê. Có thể dùng sugammadex để hóa giải các mức độ khác nhau của phong bế thần kinh cơ gây ra bởi rocuronium hoặc vecuronium.
Người lớn:
Hóa giải thông thường: Nên dùng một liều sugammadex 4 mg/kg nếu sự hóa giải đạt được ít nhất 1-2 phản ứng sau co cứng (post-tetenic count-PTC) sau sử dụng rocuronium hoặc vecuronium gây phong bế. Thời gian trung bình để phục hồi tỷ lệ T4/T1 đến 0,9 là khoảng 3 phút (xem mục Dược động học).
Nếu dùng một liều sugammadex 2 mg/kg hồi phục tự phát xuất hiện cho đến khi ít nhất tái xuất hiện T2 sau sử dụng rocuronium hoặc vecuronium gây phong bế. Thời gian trung bình để hồi phục tỷ lệ T4/T1 đến 0,9 là khoảng 2 phút (xem mục Dược động học).
Sử dụng những liều đề nghị như trên để hóa giải thông thường sẽ gây tăng nhẹ thời gian tỷ lệ T4/T1 đến 0,9 khi phong bế thần kinh cơ bằng rocuronium so với vecuronium (xem mục Dược động học).
Hóa giải tức thì sự phong bế do rocuronium: Nếu về mặt lâm sàng cần hóa giải ngay tức thì sau khi dùng rocuronium, nên dùng một liều sugammadex 16 mg/kg. Khi sugammadex 16 mg/kg được sử dụng 3 phút sau một liều tải rocuronium bromid 1,2 mg/kg, thời gian trung bình để đạt được hồi phục tỷ lệ T4/T1 đến 0,9 khoảng 1,5 phút (xem mục Dược động học).
Chưa có dữ liệu để hướng dẫn sử dụng sugammadex để hóa giải tức thì phong bế thần kinh cơ sau khi dùng vecuronium.
Tái sử dụng sugammadex: Trong trường hợp ngoại lệ tái xuất hiện phong bế thần kinh cơ sau phẫu thuật (xem mục Cảnh báo và thận trọng) sau khi dùng liều khởi đầu sugammadex 2 mg/kg hoặc 4 mg/kg, nên dùng lại một liều sugammadex 4 mg/kg. Sau liều sugammadex thứ hai, nên theo dõi bệnh nhân chặt chẽ để đẳm bảo duy trì sự hồi phục chức năng thần kinh cơ.
Tái sử dụng rocuronium hoặc vecuronium sau khi dùng sugammadex: về thời gian chờ để tái sử dụng rocuronium hoặc vecuronium sau khi hóa giải bằng sugammadex (xem mục Cảnh báo và thận trọng)
Các đối tượng bệnh nhân đặc biệt:
Suy thận:
Đối với suy thận nhẹ và trung bình (độ thanh thải creatinin ≥ 30 và < 80 mL/phút): liều khuyến cáo tương tự như đối với người lớn không bị suy thận.
Không nên dùng sugammadex cho những bệnh nhân suy thận nặng [kể cả những bệnh nhân cần thẩm phân máu (độ thanh thải creatinin < 30 mL/phút)] (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Các nghiên cứu ở bệnh nhân suy thận nặng không cung cấp thông tin đầy đủ về tính an toàn để hỗ trợ cho việc sử dụng sugammadex ở những bệnh nhân này. Xem thêm mục Dược lực học.
Bệnh nhân cao tuổi:
Sau khi dùng sugammadex tại thời điểm tái xuất hiện T2 sau phong bế thần kinh cơ bằng rocuronium, thời gian trung bình để hồi phục tỷ lệ T4/T1 đến 0,9 ở người lớn (18-64 tuổi) là 2,2 phút, ở người cao tuổi (65-74 tuổi) là 2,6 phút và ở người cao tuổi (≥75 tuổi) là 3,6 phút. Mặc dù thời gian hồi phục ở người cao tuổi có xu hướng chậm hơn, nên sử dụng liều khuyến cáo tương tự như đối với người lớn (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Bệnh nhân béo phì:
Ở những bệnh nhân béo phì, liều đề nghị sugammadex nên dựa vào thể trọng thực của bệnh nhân. Nên sử dụng liều khuyến cáo tương tự như đối với người lớn không bị béo phì.
Suy gan:
Đối với suy gan nhẹ đến trung bình: không cần điều chỉnh liều do sugammadex được đào thải chủ yếu qua thận. Các nghiên cứu ở bệnh nhân suy gan chưa được tiến hành. Cần thận trọng khi xem xét sử dụng sugammadex ở bệnh nhân suy gan nặng hoặc suy gan đi kèm với bệnh rối loạn đông máu (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Bệnh nhi:
Dữ liệu từ nhóm bệnh nhi còn hạn chế (chỉ có 1 nghiên cứu về sự hóa giải phong bế do rocuronium khi tái xuất hiện T2).
Trẻ em và thanh thiếu niên: nên dùng sugammadex 2 mg/kg để hóa giải thông thường phong bế do rocuronium khi tái xuất hiện T2 ở trẻ em và thanh thiếu niên (2-17 tuổi). Chưa tiến hành nghiên cứu các trường hợp hóa giải thông thường khác, do đó không nên dùng thuốc cho đến khi có thêm dữ liệu.
Chưa có nghiên cứu hóa giải tức thì ở trẻ em và thanh thiếu niên do đó không nên dùng thuốc cho đến khi có thêm dữ liệu. Có thể pha loãng thuốc thành 10 mg/mL để làm tăng tính chính xác của liều dùng cho bệnh nhi (xem mục Liều lượng và cách dùng).
Trẻ mới sinh đủ tháng và trẻ nhỏ: Chỉ có kinh nghiệm giới hạn về việc sử dụng sugammadex cho trẻ nhỏ (30 ngày đến 2 năm), chưa có nghiên cứu ở trẻ mới sinh đủ tháng (dưới 30 ngày). Do đó không nên dùng sugammadex cho trẻ mới sinh đủ tháng và trẻ nhỏ cho đến khi có thêm dữ liệu.