Theo dõi chức năng hô hấp trong thời gian hồi phục:
Bắt buộc phải hỗ trợ thông khí cho bệnh nhân cho đến khi hô hấp tự nhiên được phục hồi hoàn toàn sau khi hóa giải phong bế thần kinh cơ. Thậm chí khi hồi phục hoàn toàn khỏi phong bế thần kinh cơ, các thuốc khác được sử dụng xung quanh và sau phẫu thuật có thể ức chế chức năng hô háp và do đó có thể vẫn cần hỗ trợ thông khí.
Có thể tái xuất hiện phong bế thần kinh cơ sau khi rút ống nội khí quản, nên cung cấp thông khí đầy đủ.
Ảnh hưởng đến sự cầm máu:
Trong các thí nghiệm
in vitro, đã ghi nhận sự kéo dài thêm thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT) và thời gian prothrombin (PT) đối với sugammadex phối hợp với các thuốc đối kháng vitamin K, heparin không phân đoạn, heparinoid trọng lượng phân tử thấp, rivaroxaban và dabigatran.
Trong một nghiên cứu ở những người tình nguyện, các liều sugammadex 4 mg/kg và 16 mg/kg dẫn đến kéo dài aPTT trung bình tối đa là 17% với liều 4 mg/kg và 22% với liều 16 mg/kg và kéo dài PT (tỷ số chuẩn hóa quốc tế, INR) trung bình tối đa là 11% với liều 4 mg/kg và 22% với liều 16 mg/kg. Sự kéo dài aPTT và PT (INR) trung bình giới hạn này có thời gian ngắn (≤30 phút). Dựa trên cơ sở dữ liệu lâm sàng (n=1.738), không có ảnh hưởng nào có ý nghĩa lâm sàng của sugammadex dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc chống đông đối với tỷ lệ gặp biến chứng chảy máy quanh phẫu thuật hoặc sau phẫu thuật.
Xem xét bản chất thoáng qua của sự kéo dài aPPT và PT giới hạn gây ra bởi sugammadex đơn độc hoặc cùng với những thuốc chống đông này, không chắc sugammadex có gây ra tăng nguy cơ chảy máu. Vì không có thông tin về việc sử dụng sugammadex ở bệnh nhân đã biết có bệnh rối loạn đông máu, cần theo dõi cẩn thận các thông số đông máu theo thực hành lâm sàng thường quy.
Tái xuất hiện phong bế:
Đã ghi nhận tái xuất hiện phong bế trong các thử nghiệm lâm sàng chủ yếu khi sử dụng những liều dưới liều tối ưu (trong những nghiên cứu xác định liều). Để ngăn ngừa tái xuất hiện phong bế thần kinh cơ, nên dùng những liều đề nghị hóa giải thông thường tức thì (xem mục
Liều lượng và cách dùng).
Thời gian chờ để tái sử dụng các thuốc phong bế thần kinh cơ sau khi hóa giải bằng sugammadex:
Tái sử dụng rocuronium hoặc vecuronium sau khi hóa giải thông thường (sugammadex đến 4 mg/kg):
- xem Bảng 7.

Dựa trên mô hình dược động học (PK), thời gian chờ được khuyến cáo ở bệnh nhân suy thận nhẹ hoặc trung bình để tái sử dụng rocuronim 0,6 mg/kg hoặc vecuronium 0,1 mg/kg sau khi hóa giải thông thường bằng sugammadex nên là 24 giờ. Nếu cần thời gian chờ ngắn hơn, liều rocuronium cho sự phong bế thần kinh cơ mới nên là 1,2 mg/kg.
Tái sử dụng rocuronium hoặc vecuronium sau khi hóa giải tức thì (sugammadex 16 mg/kg):
Đối với những trường hợp rất hiếm gặp mà có thể cần điều này, một thời gian chờ 24 giờ được đề nghị.
Nếu cần phong bế thần kinh cơ trước khi thời gian chờ được khuyến cáo qua đi, nên sử dụng
thuốc phong bế thần kinh cơ không steroid. Sự khởi phát của thuốc phong bế thần kinh cơ khử cực có thể châm hơn so với dự kiến bởi vì một phần đáng kể các thụ thể nicotinic sau chỗ nối vẫn còn có thể bị chiếm chỗ bởi thuốc phong bế thần kinh cơ.
Suy thận:
Không khuyến cáo sử dụng sugammadex ở bệnh nhân suy thận nặng, bao gồm cả những người cần thẩm phâm (xem mục
Dược lực học).
Tương tác do tác dụng kéo dài của rocuronium hoặc vecuronium:
Khi các thuốc có khả năng phong bế thần kinh cơ được sử dụng trong giai đoạn hậu phẫu thì nên lưu ý đặc biệt đến khả năng tái xuất hiện phong bế. Xin hãy tham khảo danh sách các thuốc cụ thể có khả năng gây phong bế thần kinh cơ trong tờ thông tin kê toa của rocuronium hoặc vecuronium. Trong trường hợp tái xuất hiện phong bế, bệnh nhân có thể cần thông khí cơ học và sử dụng lại sugammadex (xem mục
Liều lượng và cách dùng).
Khả năng tương tác:
• Tương tác do chiếm giữ:
Do sử dụng sugammadex, một vài thuốc có thể trở nên kém hiệu quả do giảm nồng độ của thuốc đó trong huyết tương (dạng tự do) (xem mục
Tương tác, Thuốc tránh thai chứa hormon).
Nếu tình trạng này xuất hiện, người thầy thuốc được khuyên sử dụng lặp lại thuốc này, sử dụng thuốc có tác dụng điều trị tương đương (tốt nhất là sử dụng nhóm thuốc khác) và/hoặc những can thiệp không có tác dụng dược lý nếu thích hợp.
• Tương tác do thay thế:
Do sử dụng một vài thuốc sau khi dùng sugammadex, trên lý thuyết là rocuronium hoặc vecuronium có thể bị thay thế khỏi sugammadex. Kết quả có thể gây tái xuất hiện phong bế và khi đó bệnh nhân phải được thông khí. Nên ngừng sử dụng các thuốc có thể gây hiện tượng thay thế trong trường hợp truyền tĩnh mạch. Trong trường hợp tiên liệu có khả năng xuất hiện tương tác do thay thế, bệnh nhân nên được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu tái phát phong bế (khoảng 15 phút) sau khi sử dụng đường tiêm các thuốc khác trong vòng 7,5 giờ sau khi dùng sugammadex. Cho đến nay tương tác do thay thế có thể xảy ra với một vài thuốc (toremifen và acid fusidic, xem mục
Tương tác).
Gây mê nhẹ:
Trong các thử nghiệm lâm sàng khi phong bế thần kinh cơ được hóa giải chủ động giữa chừng, đôi khi ghi nhận các dấu hiệu của gây mê nhẹ (cử động, ho, nhăn nhó, ngậm ống nội khí quản).
Nếu hồi phục phong bế thần kinh cơ trong khi vẫn tiếp tục gây mê, nên dùng thêm những liều thuốc gây mê và/hoặc opioid theo đòi hỏi về mặt lâm sàng.
Nhịp tim chậm đáng kể:
Trong một số hiếm trường hợp, nhịp tim chậm đáng kể được ghi nhận trong vòng vài phút sau khi sử dụng sugammadex để hóa giải phong bế thần kinh cơ. Cá biệt có trường hợp nhịp tim chậm với ngừng tim đã được báo cáo (xem mục
Tác dụng không mong muốn). Bệnh nhân nên được theo dõi chặt chẽ những thay đổi về huyết động học trong và sau quá trình hóa giải phong bế thần kinh cơ. Điều trị với các thuốc kháng cholinergic như atropin nên được áp dụng nếu có nhịp tim chậm trên lâm sàng.
Suy gan:
Sugammadex không được chuyển hóa hoặc thải trừ qua gan; do đó không tiến hành nghiên cứu trên bệnh nhân suy gan. Nên hết sức thận trọng khi điều trị cho những bệnh nhân suy gan nặng. Trong trường hợp suy gan kèm theo bệnh rối loạn đông máu xem thông tin phần ảnh hưởng tới sự cầm máu.
Sử dụng trong đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU):
Chưa nghiên cứu sugammadex ở những bệnh nhân dùng rocuronium hoặc vecuronium trong đơn vị chăm sóc đặc biệt.
Sử dụng để hóa giải các thuốc phong bế thần kinh cơ khác không phải rocuronium hoặc vecuronium:
Không nên sử dụng sugammadex để hóa giải phong bế gây ra bởi các thuốc phong bế thần kinh cơ không steroid như các hợp chất succinylcholin hoặc benzylisoquinolinium.
Không nên dùng sugammadex để hóa giải phong bế thần kinh cơ gây ra bởi các thuốc phong bế thần kinh cơ steroid khác ngoài rocuronium hoặc vecuronium do không có dữ liệu về tính hiệu quả và an toàn đối với những thuốc đó. Dữ liệu hiện có còn giới hạn về tác dụng hóa giải phong bế do pancuronium, do đó không nên dùng sugammadex trong trường hợp này.
Tác dụng hóa giải chậm:
Những bệnh kèm theo ứ trệ tuần hoàn như bệnh tim mạch, tuổi cao (xem mục
Liều lượng và cách dùng, thời gian hóa giải ở bệnh nhân cao tuổi), hoặc tình trạng phù thũng có thể làm cho thời gian hóa giải kéo dài hơn.
Phản ứng dị ứng:
Bác sĩ nên chuẩn bị cho khả năng xuất hiện các phản ứng dị ứng và có biện pháp phòng ngừa cần thiết (xem mục
Tác dụng không mong muốn).
Bệnh nhân kiêng natri có kiểm soát:
Mỗi mL dung dịch chứa 9,4 mg natri. Mỗi liều chứa 23 mg natri được cho là “không chứa natri”. Nếu cần dùng nhiều hơn 2,5 mL dung dịch thì nên cân nhắc đối với những bệnh nhân ăn kiêng muối có kiểm soát.
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc:
Chưa có bằng chứng về ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe, vận hành máy móc.