Các tình trạng cần thận trọng khi dùng thuốc:
- Ảnh hưởng trên tim: Itraconazol có ảnh hưởng không tốt tới sự co thắt của tim và itraconazol có liên quan đến những báo cáo suy tim sung huyết. Suy tim thường được báo cáo ở nhóm bệnh nhân dùng tổng cộng 400 mg/ngày hơn nhóm dùng liều thấp, vì vậy nguy cơ suy tim có thể tăng khi tổng liều itraconazol trong ngày tăng.
Không nên dùng itraconazol ở những bệnh nhân bị suy tim sung huyết hoặc có tiền sử suy tim sung huyết trừ khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ. Những đánh giá riêng lẻ về lợi ích/nguy cơ này nên được cân nhắc về những yếu tố như chỉ định, liều dùng và yếu tố cá nhân đối với suy tim sung huyết. Những yếu tố nguy cơ bệnh tim bao gồm: bệnh thiếu máu cục bộ và bệnh van tim, bệnh phổi nặng: như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; suy thận và các rối loạn phù nề khác. Những bệnh nhân này nên được thông báo trước những triệu chứng suy tim sung huyết trong suốt thời gian điều trị. Nếu thấy có triệu chứng xuất hiện, nên ngưng sử dụng itraconazol.
Những thuốc chẹn kênh calci có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sự co thắt của tim, cộng hưởng với itraconazol.
- Tính acid dạ dày giảm: Sự hấp thu thuốc sẽ kém khi tính acid dạ dày giảm. Ở những bệnh nhân đang dùng thuốc trung hòa acid, các thuốc này nên được uống ít nhất 2 giờ sau khi uống itraconazol. Ở bệnh nhân thiếu acid dịch vị như một số bệnh nhân AIDS và bệnh nhân dùng thuốc kháng tiết acid (như chất đối kháng H2, chất ức chế bơm proton) được khuyến cáo nên uống thuốc itraconazol cùng với nước giải khát.
- Sử dụng ở trẻ em: Các dữ liệu lâm sàng về việc dùng itraconazol ở trẻ em còn hạn chế. Không nên dùng ở trẻ em trừ khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ có thể xảy ra.
- Sử dụng ở người cao tuổi: Dữ liệu lâm sàng về việc dùng itraconazol ở người cao tuổi còn hạn chế. Chỉ nên dùng itraconazol khi lợi ích điều trị cao hơn nguy cơ có thể xảy ra.
- Ảnh hưởng trên gan: Rất hiếm có trường hợp nhiễm độc gan nặng kể cả vài trường hợp suy gan cấp gây nguy hại tính mạng khi sử dụng itraconazol. Hầu hết những trường hợp này có liên quan đến bệnh nhân có tiền sử bệnh gan, đã được điều trị toàn thân hoặc có những bệnh lý đáng kể khác và/hoặc đã sử dụng những thuốc khác có độc tính trên gan. Một vài bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ rõ ràng về bệnh gan. Trong số những trường hợp này, thấy có xuất hiện dấu hiệu của bệnh gan trong vòng tháng đầu điều trị, kể cả vài trường hợp trong vòng tuần đầu. Nên giám sát chức năng gan ở bệnh nhân điều trị với itraconazol.
Hướng dẫn bệnh nhân báo ngay cho bác sỹ khi gặp những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh viêm gan như biếng ăn, buồn nôn, nôn, mệt mỏi, đau bụng hoặc nước tiểu sậm màu. Nên ngưng điều trị ngay và theo dõi chức năng gan.
Ở những bệnh nhân tăng men gan hay có bệnh gan tiến triển hoặc bị nhiễm độc gan do thuốc khác, không khuyến khích điều trị với itraconazol trừ khi lợi ích mong đợi nhiều hơn nguy cơ tổn thương gan. Trong những trường hợp như vậy, cần phải theo dõi chặt chẽ men gan.
- Suy gan: Chưa có đủ dữ liệu về việc sử dụng itraconazol đường uống cho bệnh nhân bị suy gan vì vậy nên thận trọng khi sử dụng thuốc cho đối tượng bệnh nhân này.
- Suy thận: Chưa có đủ dữ liệu về việc sử dụng itraconazol đường uống cho bệnh nhân bị suy thận vì vậy nên thận trọng khi sử dụng thuốc cho đối tượng bệnh nhân này và có thể cân nhắc điều chỉnh liều.
- Bệnh nhân suy giảm miễn dịch: Ở một số bệnh nhân suy giảm miễn dịch, sinh khả dụng của itraconazol có thể giảm.
- Bệnh nhân nhiễm nấm nội tạng đe dọa tính mạng: Do tính chất dược động học, itraconazol không được khuyến khích trong điều trị khởi đầu những bệnh nhân nhiễm nấm nội tạng đang đe dọa tính mạng.
- Bệnh nhân AIDS: Điều trị nhiễm nấm nội tạng ở bệnh nhân AIDS như nhiễm nấm Sporothix, Blastomyces, Histoplasma hoặc Cryptococcus (viêm màng não và ngoài màng não) và những bệnh nhân có nguy cơ tái phát, bác sỹ nên cân nhắc để điều trị duy trì.
- Tính nhạy cảm chéo: Không có thông tin nào đề cập đến tính nhạy cảm chéo giữa itraconazol và các thuốc kháng nấm thuộc nhóm azol khác. Cần thận trọng trong việc kê toa itraconazol cho những bệnh nhân nhạy cảm với các thuốc thuộc nhóm azol khác.
- Bệnh thần kinh: Nếu xảy ra bệnh lý thần kinh mà có thể quy cho itraconazol, nên ngưng điều trị.
- Mất thính giác: Bệnh nhân sử dụng itraconazol được ghi nhận là có thể bị mất khả năng nghe tạm thời hay vĩnh viễn, trong đó đa phần những bệnh nhân này có sử dụng đồng thời thuốc quinidin là thuốc chống chỉ định dùng chung. Hiện tượng mất thính giác thường được hồi phục sau khi ngưng điều trị, tuy nhiên một số bệnh nhân khác vẫn còn tiếp diễn.
- Đề kháng chéo: Trong nhiễm Candida hệ thống, nếu nghi ngờ các chủng Candida đề kháng fluconazol thì không thể cho rằng các chủng này nhạy cảm với itraconazol, vì vậy nên kiểm tra tính nhạy cảm trước khi bắt đầu điều trị với itraconazol.
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe, vận hành máy móc: Không có nghiên cứu về ảnh hưởng đến khả năng lái xe và sử dụng máy móc đã được thực hiện. Khi lái xe và vận hành máy móc, khả năng xảy ra tác dụng không mong muốn như chóng mặt, loạn thị giác và mất thính giác có thể xảy ra trong một số trường hợp, phải được tính đến.