Hấp thu
Với liều uống 10 – 20 mg, lercanidipine được hấp thu hoàn toàn và đạt nồng độ đỉnh tương ứng trong huyết tương là 3,30 ng/mL ± 2,09 và 7,66 ng/mL ± 5,90, khoảng 1,5 – 3 giờ sau khi uống thuốc.
Hai chất đối hình của lercanidipine cho thấy có nồng độ tương đương trong huyết tương: thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương là như nhau, nồng độ đỉnh trong huyết tương và AUC, tính trung bình, cao hơn 1,2 lần so với chất đối hình (S), và thời gian bán thải của hai chất đối hình này cơ bản là như nhau. Không thấy có sự chuyển đổi qua lại giữa hai chất này trong cơ thể.
Do sự chuyển hóa lần đầu cao nên sinh khả dụng tuyệt đối của lercanidipine đường uống khoảng 10% ở bệnh nhân khi ăn no, tỷ lệ này giảm 1/3 ở người tình nguyện khỏe mạnh uống lúc bụng đói.
Sinh khả dụng đường uống của lercanidipine sẽ tăng lên 4 lần khi uống lercanidipine 2 giờ sau một bữa ăn giàu chất béo. Do đó, cần uống lercanidipine trước bữa ăn.
Phân bố
Sự phân bố nhanh và mạnh từ huyết tương vào các mô và cơ quan.
Tỷ lệ lercanidipine gắn kết với protein huyết thanh hơn 98%. Vì nồng độ protein trong huyết tương giảm đi ở bệnh nhân rối loạn chức năng gan hoặc thận nặng, nên dạng tự do của thuốc có thể tăng lên.
Sinh chuyển hóa
Lercanidipine bị chuyển hóa mạnh bởi CYP3A4, không tìm thấy lercanidipine trong nước tiểu hoặc phân. Thuốc được chuyển đổi chủ yếu thành các chất chuyển hóa không hoạt tính và khoảng 50% liều dùng đào thải qua nước tiểu.
Thí nghiệm in vitro với microsom gan ở người cho thấy lercanidipine có tác dụng ức chế một phần CYP3A4 và CYP2D6, với nồng độ lần lượt cao hơn gấp 160 lần và 40 lần nồng độ đỉnh trong huyết tương sau khi dùng liều 20 mg.
Hơn nữa, nghiên cứu về tương tác trên người cho thấy lercanidipine không làm thay đổi nồng độ trong huyết tương của midazolam, một cơ chất điển hình của CYP3A4, hoặc metoprolol, một cơ chất điển hình của CYP2D6. Vì vậy, ở liều điều trị, lercanidipine không có tác dụng ức chế sinh chuyển hóa của các thuốc được chuyển hóa bởi CYP3A4 và CYP2D6.
Thải trừ
Thuốc được thải trừ chủ yếu nhờ sinh chuyển hóa.
Thời gian bán thải trung bình là 8 – 10 giờ và tác dụng điều trị kéo dài 24 giờ do thuốc gắn kết mạnh với màng lipid. Không thấy có tích lũy thuốc khi lặp lại liều dùng nhiều lần.
Tuyến tính/không tuyến tính
Khi uống, nồng độ lercanidipine không tỷ lệ thuận thẳng với liều lượng (động học không tuyến tính). Sau khi uống 10, 20 hoặc 40 mg, nồng độ đỉnh trong huyết tương theo tỷ lệ 1 : 3 : 8 và AUC đạt tỷ lệ 1 : 4 : 18, gợi ý một sự bão hòa tăng dần của chuyển hóa ban đầu. Như vậy sinh khả dụng tăng khi tăng liều.
Thông tin bổ sung cho các đối tượng đặc biệt
Ở bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân có rối loạn chức năng thận hoặc suy gan nhẹ đến trung bình, dược động học được thấy tương đương so với khi quan sát trên nhóm dân số chung; ở bệnh nhân rối loạn chức năng thận nặng hoặc thẩm phân cho thấy nồng độ thuốc cao hơn (khoảng 70%). Với bệnh nhân suy gan trung bình đến nặng, sinh khả dụng toàn thân của lercanidipine tăng lên, vì thuốc thường chuyển hóa mạnh qua gan.