Nguyên nhân thứ phát của tăng lipid huyết
Nguyên nhân thứ phát của tăng cholesterol huyết, như đái tháo đường tuýp 2 không kiểm soát, suy tuyến giáp, hội chứng thận hư, rối loạn protein huyết, bệnh gan tắc nghẽn, điều trị dược lý, nghiện rượu nên được điều trị đầy đủ trước khi cân nhắc điều trị bằng liệu pháp fenofibrate. Nguyên nhân thứ phát của tăng cholesterol huyết liên quan đến điều trị dược lý có thể thấy ở thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn beta, estrogen, progestogen, thuốc tránh thai đường uống dạng phối hợp, thuốc ức chế miễn dịch và thuốc ức chế protease. Trong những trường hợp này, cần xác định nguyên nhân tăng lipid huyết là nguyên phát hay thứ phát (những tác nhân điều trị này có thể làm tăng giá trị lipid).
Chức năng gan
Như các thuốc hạ lipid khác, tăng nồng độ transaminase ở một số bệnh nhân cũng đã được báo cáo. Trong phần lớn các trường hợp, tăng thoáng qua, nhẹ và không có triệu chứng. Khuyến cáo theo dõi nồng độ transaminase mỗi 3 tháng trong 12 tháng đầu điều trị và định kỳ sau đó.
Lưu ý đến những bệnh nhân tăng nồng độ transaminase tiến triển và nên ngưng điều trị nếu nồng độ AST (SGOT) và ALT (SGPT) vượt quá 3 lần mức bình thường. Ngưng dùng fenofibrate khi xuất hiện các triệu chứng của viêm gan (như vàng da, ngứa), và đã được chẩn đoán bằng xét nghiệm.
Tuyến tụy
Viêm tụy đã được báo cáo ở những bệnh nhân dùng fenofibrate. Điều này có thể cho thấy thuốc không có hiệu quả ở những bệnh nhân tăng triglycerid nặng, do tác dụng trực tiếp của thuốc, hoặc hiện tượng thứ phát do sỏi đường mật hoặc hình thành cặn đường dẫn mật dẫn đến tắc nghẽn ống mật chủ.
Cơ
Độc tính cơ, bao gồm các trường hợp hiếm gặp của tiêu cơ vân, có hoặc không có suy thận đã được báo cáo khi dùng các fibrate và các thuốc hạ lipid khác. Tỷ lệ mắc chứng rối loạn này gia tăng trong các trường hợp giảm albumin huyết và suy thận trước đó. Những bệnh nhân có các yếu tố dẫn đến bệnh cơ và/hoặc tiêu cơ vân, bao gồm trên 70 tuổi, tiền sử bệnh nhân hoặc gia đình có rối loạn cơ di truyền, suy thận, suy giáp và uống nhiều rượu, cũng có thể làm tăng nguy cơ tiến triển tiêu cơ vân. Đối với những bệnh nhân này, cần cân nhắc cẩn thận những lợi ích và nguy cơ của liệu pháp fenofibrate.
Nghi ngờ độc tính cơ ở những bệnh nhân có biểu hiện đau cơ lan tỏa, viêm cơ, co cứng cơ và yếu cơ và/hoặc tăng creatine phosphokinase CPK (vượt quá 5 lần giới hạn trên của mức bình thường). Ngưng điều trị fenofibrate trong những trường hợp này.
Tăng nguy cơ độc tính cơ khi dùng đồng thời với fibrate khác hoặc thuốc ức chế HMG-CoA reductase, đặc biệt trong trường hợp đã có bệnh về cơ trước đó. Do đó, việc dùng đồng thời fenofibrate với thuốc ức chế HMG-CoA reductase hoặc fibrate khác nên được chỉ định riêng cho những bệnh nhân bị rối loạn lipid huyết hỗn hợp nghiêm trọng và nguy cơ tim mạch cao mà không có tiền sử về bệnh cơ và theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu độc tính trên cơ.
Chức năng thận
Fenostad chống chỉ định trong suy thận nặng.
Fenostad nên dùng thận trọng ở những bệnh nhân suy thận từ nhẹ đến vừa. Cần chỉnh liều ở những bệnh nhân có độ lọc cầu thận ước tính là 30-59 mL/phút/1,73 m2.
Tăng creatinin huyết thanh có hồi phục đã được báo cáo ở những bệnh nhân dùng fenofibrate đơn trị hoặc phối hợp với statin. Nồng độ cao creatinin huyết thanh thường ổn định theo thời gian mà không tiếp tục tăng khi điều trị lâu dài và có xu hướng trở lại bình thường khi ngưng điều trị.
Trong các thử nghiệm lâm sàng, tỷ lệ bệnh nhân tăng hơn 30 μmol/L creatinin so với mức ban đầu khi dùng phối hợp fenofibrate và simvastatin là 10% so với khi dùng đơn trị statin là 4,4%. 0,3% bệnh nhân sử dụng phối hợp fenofibrate và statin có creatinin tăng cao, trên 200 μmol/L.
Ngừng điều trị khi nồng độ creatinin cao hơn 50% giới hạn trên của mức bình thường. Khuyến cáo theo dõi nồng độ creatinin trong 3 tháng đầu điều trị và định kỳ sau đó.
Trẻ em
Chỉ có bệnh di truyền (tăng lipid huyết gia đình) cần điều trị sớm, và bản chất đúng của tăng lipid huyết phải được xác định bởi các nghiên cứu di truyền và phòng thí nghiệm. Nên bắt đầu điều trị bằng các chế độ ăn kiêng có kiểm soát trong thời gian ít nhất 3 tháng. Tiếp tục điều trị bằng thuốc chỉ nên được xem xét sau khi được tư vấn y khoa và các dấu hiệu lâm sàng ở dạng nặng như xơ vữa động mạch và/hoặc u vàng và/hoặc trong trường hợp bệnh nhân bị bệnh xơ vữa động mạch tim trước 40 tuổi.
Tá dược
Fenostad 67, Fenostad 100 có chứa sucrose (sugar spheres). Không nên dùng thuốc này cho bệnh nhân có các vấn đề về di truyền hiếm gặp không dung nạp fructose, kém hấp thu glucose-galactose hoặc thiếu hụt enzym sucrase-isomaltase.
Fenostad 160, Fenostad 200 có chứa lactose. Không nên dùng thuốc này cho bệnh nhân có các vấn đề về di truyền hiếm gặp không dung nạp galactose, thiếu hụt enzym lactase toàn phần hay kém hấp thu glucose-galactose.
Fenostad 160 có chứa dưới 1 mmol (23 mg) trong mỗi viên, về cơ bản được xem như "không chứa natri".
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe, vận hành máy móc
Fenostad không có hoặc ảnh hưởng không đáng kể trên khả năng lái xe và vận hành máy móc.