Hấp thu
Nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) đạt được trong vòng 4-5 giờ sau khi uống. Nồng độ thuốc trong huyết tương ổn định trong quá trình điều trị liên tục ở bất kỳ cá nhân nào.
Sự hấp thu fenofibrate tăng lên khi dùng chung với thức ăn.
Phân bố
Acid fenofibric có liên kết mạnh với albumin huyết tương (trên 99%).
Chuyển hóa và thải trừ
Sau khi uống, fenofibrate nhanh chóng bị thủy phân bởi esterases thành chất chuyển hóa có hoạt tính acid fenofibric; chất này gắn nhiều vào albumin huyết tương và có thể đẩy các thuốc kháng vitamin K ra khỏi vị trí gắn.
Không phát hiện fenofibrate dạng chưa chuyển hóa trong huyết tương. Fenofibrate không phải là cơ chất của CYP 3A4. Không có sự chuyển hóa qua microsome gan.
Thuốc được thải trừ chủ yếu trong nước tiểu. Thực tế tất cả lượng thuốc đã dùng được đào thải trong vòng 6 ngày. Fenofibrate chủ yếu được thải trừ dưới dạng acid fenofibric và dạng liên hợp glucuronic của nó. Ở bệnh nhân cao tuổi, độ thanh thải toàn phần của acid fenofibric trong huyết tương không thay đổi.
Các nghiên cứu động học sau khi dùng một liều duy nhất và điều trị liên tục đã cho thấy không có sự tích lũy thuốc. Acid fenofibic không được thải trừ qua thẩm tách máu.
Thời gian bán thải của acid fenofibric trong huyết tương là khoảng 20 giờ.