Các đặc tính dược lực học
Nhóm dược lý điều trị: Thuốc tránh thai nội tiết dùng toàn thân; các progestogen và estrogen.
Mã ATC: G03AA09
Tác dụng tránh thai của viên uống tránh thai phối hợp dựa trên sự tương tác của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố quan trọng nhất được nhận thấy là ức chế phóng noãn và những thay đổi bài tiết tại cổ tử cung. Cùng với tác dụng tránh thai, viên uống tránh thai phối hợp có một số đặc tính có lợi, bên cạnh các tính chất bất lợi (xem mục Cảnh báo và thận trọng và Tác dụng không mong muốn), mà những đặc tính có lợi này có thể hữu ích trong việc quyết định biện pháp tránh thai. Chu kỳ kinh nguyệt trở nên đều hơn và kỳ hành kinh thường sẽ ít đau và ít mất máu hơn có thể giúp hạn chế xảy ra tình trạng thiếu sắt.
Ngoài ra, với loại viên uống tránh thai phối hợp liều cao (chứa 0,05 mg ethinylestradiol), có bằng chứng cho thấy giảm nguy cơ u xơ vú, u nang buồng trứng, bệnh viêm vùng chậu, thai ngoài tử cung, ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng. Những lợi ích này có áp dụng với các thuốc tránh thai liều thấp hay không thì vẫn cần được khẳng định.
Trẻ em
Không có dữ liệu lâm sàng về hiệu quả và độ an toàn cho người dưới 18 tuổi.
Các đặc tính dược động học
Desogestrel
Hấp thu: Desogestrel dùng đường uống được hấp thu nhanh và hoàn toàn và được chuyển thành etonogestrel. Nồng độ đỉnh huyết tương đạt được sau khoảng 1,5 giờ. Sinh khả dụng khoảng 62-81%.
Phân bố: Etonogestrel gắn với albumin huyết thanh và với globulin gắn hormon sinh dục (SHBG). Chỉ 2-4% tổng nồng độ thuốc trong huyết thanh tồn tại dưới dạng tự do, 40-70% gắn đặc hiệu vào SHBG. Việc tăng SHBG do ethinylestradiol gây cảm ứng làm ảnh hưởng đến sự phân bố trên protein huyết thanh, làm tăng tỷ lệ gắn kết với SHBG và giảm tỷ lệ gắn với albumin. Thể tích phân bố là 5 L/kg.
Chuyển hóa: Etonogestrel được chuyển hóa hoàn toàn qua con đường chuyển hóa steroid. Tốc độ thanh thải huyết thanh là khoảng 2 mL/phút/kg. Không xảy ra tương tác khi etonogestrel dùng cùng với ethinylestradiol.
Thải trừ: Nồng độ etonogestrel huyết thanh giảm trong hai pha. Pha chuyển hóa cuối cùng có nửa đời thải trừ khoảng 30 giờ. Desogestrel và các chất chuyển hóa của nó bài xuất qua nước tiểu và qua mật với tỷ lệ khoảng 6 : 4.
Trạng thái ổn định: Dược động học của etonogestrel bị ảnh hưởng bởi nồng độ SHBG huyết thanh. Khi có ethinylestradiol, nồng độ SHBG tăng gấp ba lần. Khi dùng hàng ngày, trạng thái ổn định đạt được vào nửa sau của chu kỳ, khi đó nồng độ etonogestrel trong huyết thanh tăng từ hai đến ba lần.
Ethinylestradiol (EE)
Hấp thu: Ethinylestradiol được hấp thu nhanh và hoàn toàn sau khi uống. Nồng độ đỉnh huyết thanh đạt được trong vòng 1-2 giờ. Vì có liên hợp tiền hệ thống và chuyển hóa lần đầu, sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc đạt khoảng 60%.
Phân bố: Ethinylestradiol gắn kết albumin huyết tương với tỷ lệ cao (khoảng 98,5%) nhưng không đặc hiệu và gây cảm ứng tăng nồng độ SHBG huyết thanh. Thể tích phân bố của nó là 5 L/kg.
Chuyển hóa: Ethinylestradiol trải qua liên hợp tiền hệ thống tại cả niêm mạc ruột non và tại gan. Ethinylestradiol được chuyển hóa chủ yếu theo con đường hydroxyl hóa vòng thơm, tạo ra nhiều chất chuyển hóa hydroxyl hóa và methyl hóa, tồn tại ở dạng tự do và dạng liên hợp glucuronid và liên hợp sulphat. Tốc độ thanh thải chuyển hóa vào khoảng 5 mL/phút/kg.
Thải trừ: Nồng độ ethinylestradiol huyết thanh giảm trong hai pha, pha chuyển hóa cuối cùng có nửa đời thải trừ khoảng 24 giờ. Thuốc ở dạng không chuyển hóa không được bài xuất; các chất chuyển hóa của ethinylestradiol được bài xuất qua nước tiểu và qua mật với tỷ lệ 4 : 6. Nửa đời thải trừ bài xuất chất chuyển hóa khoảng 1 ngày.
Trạng thái ổn định: Trạng thái ổn định đạt được sau 3-4 ngày, khi đó nồng độ của thuốc trong huyết thanh cao hơn so với liều đơn khoảng 30-40%.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Các nghiên cứu quy ước về an toàn dược lý, về độc tính với liều lặp lại, độc tính trên di truyền, khả năng gây ung thư và độc tính trên hệ sinh sản đã chứng minh rằng viên uống tránh thai phối hợp không có nguy cơ đặc biệt nào trên người nếu được sử dụng một cách phù hợp.
Tuy nhiên, phải chú ý rằng các steroid sinh dục có thể thúc đẩy phát triển một số mô và khối u phụ thuộc nội tiết tố.