Propain Syrup

Propain Syrup

naproxen

Nhà sản xuất:

Orion

Nhà phân phối:

Nafarma
Vidal Prescribing Info
Thành phần
Mỗi mL: Naproxen 25 mg.
Mô tả
Thành phần tá dược: Sorbitol lỏng (không kết tinh); methyl parahydroxybenzoat; propyl parahydroxybenzoat; acid citric khan; natri citrat; glycerol 85%; gôm xanthan; avicel RC 591; polysorbat 80; sucralose (E955); hương socola 40.136; nước tinh khiết.
Mô tả: Hỗn dịch đồng nhất màu gần trắng đến trắng.
Dược lực học
Phân nhóm dược lý: Dẫn xuất acid propionic.
Mã ATC: M01AE02.
Naproxen là thuốc giảm đau chống viêm không steroid racemic thuộc dẫn xuất acid propionic. Hoạt tính dược lý của naproxen được coi là nằm với đồng phân đối tượng S, là đồng phân đối quang duy nhất trong naproxen được sử dụng trên lâm sàng, và nó dựa trên sự ức chế enzym cyclooxygenase và tổng hợp prostaglandin. Naproxen làm giảm sốt thông qua việc ức chế tổng hợp prostaglandin trung ương, giảm viêm và đau bằng cách ức chế tổng hợp prostaglandin ngoại vi, do đó làm giảm giải phóng các chất trung gian làm tăng đau và viêm. Tác dụng của naproxen đối với cơ chế bảo vệ niêm mạc dạ dày, tưới máu thận và tiểu cầu cũng do ức chế tổng hợp prostaglandin.
Dược động học
Sau khi uống, naproxen được hấp thu hoàn toàn (95-100%). Liên quan đến lượng thức ăn, sự hấp thụ chậm lại nhưng khả dụng sinh học vẫn không bị ảnh hưởng. Sau khi dùng một liều duy nhất 250 mg (25 mg/mL, 10 mL) cho người lớn khỏe mạnh, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong 1 đến 1,5 giờ và nồng độ đỉnh khoảng 50 µg/mL. Nồng độ điều trị trong huyết tương được coi là 30-90 µg/mL. Liên kết với protein huyết tương của naproxen rất rộng (> 99%); nó liên kết chủ yếu với albumin mà còn với globulin, và thể tích phân phối của nó là khoảng 0,15 L/kg. Tổng nồng độ naproxen trong dịch khớp bằng 65-70% so với trong huyết tương, trong khi nồng độ naproxen không liên kết là như nhau. Naproxen có dược động học tuyến tính với liều duy nhất lên đến 500 mg. Ở liều cao hơn mức này, liên kết với protein huyết tương được bão hòa, nồng độ của naproxen không liên kết tăng lên và quá trình đào thải được đẩy nhanh.
Thời gian bán thải trong huyết tương là 12-15 giờ và trong dịch khớp lên đến 30 giờ.
Naproxen được thải trừ trong gan (CYP450 isoenzym 1A2, 2C8 và 2C9) thành 6-O-demethylnaproxen không hoạt động về mặt dược lý. Naproxen và 6-O-demethylnaproxen được bài tiết chủ yếu qua nước tiểu dưới dạng liên hợp sulphat và glucuronid. Tuần hoàn ruột dường như tồn tại nhưng mức độ của nó không được biết đến. Chỉ 1-2% tổng liều được thải trừ qua phân. Dược động học của naproxen ở trẻ em và người lớn là như nhau trong khi ở người cao tuổi, nồng độ naproxen không liên kết trong huyết tương cao hơn và thải trừ chậm hơn. Naproxen không được tích lũy ở một mức độ đáng kể liên quan đến suy thận. Naproxen không thể thẩm tách được. Nếu độ thanh thải creatinin dưới 10 mL/phút, 6-O-demethylnaproxen được tích lũy nhưng nó có thể được loại bỏ trong thẩm tách máu. Liên quan đến suy gan, quá trình đào thải naproxen bị chậm lại, và nếu nồng độ albumin huyết tương giảm, nồng độ naproxen không liên kết trong huyết tương sẽ tăng lên.
Chỉ định/Công dụng
Người lớn:
- Viêm khớp dạng thấp, thoái hóa đốt sống (bao gồm cả viêm cột sống dính khớp).
- Thoái hóa xương khớp.
- Bệnh gút cấp.
- Rối loạn cơ xương cấp tính kèm theo đau.
- Đau bụng kinh.
Trẻ em: Viêm khớp dạng thấp ở trẻ vị thành niên.
Liều dùng/Hướng dẫn sử dụng
Cách dùng:
Dùng đường uống. Tốt nhất nên uống trong hoặc sau khi ăn.
Các phản ứng có hại của thuốc có thể được giảm bớt bằng cách dùng liều thấp nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất có thể để kiểm soát các triệu chứng.
Liều dùng:
Người lớn
Liều thông thường là 250-500 mg (10-20 mL) 2 lần/ngày, tùy theo nhu cầu người bệnh đối với thuốc.
Nếu triệu chứng chính của bệnh viêm khớp dạng thấp là cứng khớp vào buổi sáng, thì có thể dùng một liều duy nhất 500-750 mg (20-30 mL) vào buổi tối.
Trong điều trị bệnh gút cấp, liều khuyến cáo là 750 mg một lần sau đó 250 mg mỗi 8 giờ cho đến khi hết cơn.
Trong điều trị rối loạn cơ xương cấp tính và đau bụng kinh, liều khuyến cáo ban đầu là 500 mg, sau đó 250 mg cách nhau 6-8 giờ nếu cần, với liều tối đa hàng ngày sau ngày đầu tiên là 1250 mg.
Trẻ em (trên 5 tuổi)
Đối với viêm khớp dạng thấp thiếu niên: ở trẻ em trên 5 tuổi, liều khuyến cáo hàng ngày là 10 mg/kg thể trọng chia làm hai lần. Liều lượng theo bảng dưới đây. Bệnh nhân nặng trên 50 kg có thể được dùng theo liều lượng dành cho người lớn.
- xem Bảng 1.

Image from Drug Label Content

Người cao tuổi
So với những bệnh nhân trẻ tuổi, nồng độ naproxen không liên kết trong huyết tương cao hơn và đào thải naproxen chậm hơn ở những người trên 70 tuổi. Bệnh nhân cao tuổi dễ gặp phải tác dụng không mong muốn của thuốc giảm đau chống viêm hơn những bệnh nhân khác. Vì những lý do này, sử dụng liều đơn thấp hơn, tức là 250 mg (10 mL) hai lần một ngày, được khuyến cáo cho bệnh nhân cao tuổi. Bệnh nhân nên được theo dõi thường xuyên về xuất huyết tiêu hóa trong khi điều trị bằng NSAID.
Bệnh nhân suy thận
Ở bệnh nhân suy thận nhẹ, nên dùng liều thấp nhất có hiệu quả và phải theo dõi chức năng thận. Nếu có thể, nên tránh sử dụng thuốc ở bệnh nhân suy thận trung bình (độ thanh thải creatinin 50-10 mL/phút, hoặc S-CR 160-565 micromol/L). Chống chỉ định sử dụng naproxen ở bệnh nhân suy thận nặng.
Bệnh nhân suy gan
Naproxen nên được sử dụng thận trọng cho bệnh nhân suy gan nhẹ đến trung bình hoặc bệnh gan xơ gan. Liều thấp nhất có hiệu quả nên được sử dụng. Chống chỉ định sử dụng naproxen ở bệnh nhân suy gan nặng.
Chống chỉ định
Chống chỉ định sử dụng trong các trường hợp:
- Phụ nữ có thai 3 tháng cuối thai kỳ.
- Bệnh nhân có tiền sử viêm mũi dị ứng, hen phế quản, polyp mũi hoặc nổi mày đay liên quan đến acid acetylsalicylic hoặc NSAID.
- Bệnh nhân mẫn cảm với naproxen hay bất cứ thành phần nào khác của thuốc.
- Bệnh nhân suy tim nặng.
- Suy gan và suy thận nặng.
- Bệnh nhân có tiền sử xuất huyết hoặc thủng dạ dày, liên quan đến liệu pháp điều trị bằng NSAID trước đó.
- Loét dạ dày hoặc tá tràng thể hoạt động, hoặc tiền sử loét dạ dày tá tràng tái phát/xuất huyết (hai hoặc nhiều đợt viêm loét hoặc xuất huyết riêng biệt đã được chứng minh).
- Các tình trạng khác dẫn đến xuất huyết đường tiêu hóa.
Cảnh báo và thận trọng
Nên tránh sử dụng naproxen đồng thời với NSAID bao gồm các chất ức chế chọn lọc cyclooxygenase-2.
Các tác dụng không mong muốn có thể được giảm thiểu bằng cách sử dụng liều tối thiểu có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất cần thiết để kiểm soát các triệu chứng. Bệnh nhân được điều trị bằng NSAID lâu dài nên được giám sát y tế thường xuyên để theo dõi các tác dụng phụ.
Người cao tuổi
Người cao tuổi có tần suất tăng các tác dụng không mong muốn với NSAID; đặc biệt là xuất huyết và thủng đường tiêu hóa có thể gây tử vong. Không khuyến cáo sử dụng NSAID trong thời gian dài ở những bệnh nhân này. Khi cần điều trị trong thời gian dài, bệnh nhân nên được xem xét thường xuyên.
Ảnh hưởng đến tim, tuần hoàn máu và tuần hoàn não
Cần theo dõi và tư vấn thích hợp cho bệnh nhân tăng huyết áp và/hoặc suy tim nhẹ hoặc trung bình vì tình trạng giữ nước và phù nề đã được báo cáo liên quan đến liệu pháp NSAID.
Dữ liệu thử nghiệm lâm sàng và dịch tễ học cho thấy rằng việc sử dụng các coxib và một số thuốc giảm đau chống viêm khác có thể làm tăng nhẹ nguy cơ biến cố huyết khối tim mạch (như nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ, có thể dẫn đến tử vong). Mặc dù dữ liệu hiện tại cho thấy nguy cơ có thể thấp hơn khi sử dụng naproxen (1.000 mg/ngày), nhưng không thể loại trừ hoàn toàn nguy cơ này. Nguy cơ này có thể xuất hiện sớm trong vài tuần đầu dùng thuốc và có thể tăng lên theo thời gian dùng thuốc. Nguy cơ huyết khối tim mạch được ghi nhận chủ yếu ở liều cao.
Bệnh nhân bị tăng huyết áp không kiểm soát được, suy tim sung huyết, thiếu máu cơ tim đã hình thành, bệnh động mạch ngoại vi và /hoặc bệnh mạch máu não chỉ nên được điều trị bằng naproxen sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng. Cần cân nhắc tương tự trước khi bắt đầu điều trị dài hạn cho bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch (như tăng huyết áp, tăng lipid máu, đái tháo đường, hút thuốc lá). Cần đánh giá định kỳ sự xuất hiện của biến cố tim mạch, ngay cả khi bệnh nhân không có các triệu chứng tim mạch trước đó. Cần cảnh báo các triệu chứng của biến cố tim mạch nghiêm trọng cho bệnh nhân và khuyến cáo thăm khám ngay khi xuất hiện triệu chứng.
Để giảm thiểu nguy cơ xuất hiện tác dụng không mong muốn trên tim mạch, cần sử dụng naproxen ở liều hàng ngày thấp nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất có thể.
Nồng độ kali huyết thanh nên được theo dõi đặc biệt ở những bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế men chuyển angiotensin, thuốc chẹn thụ thể angiotensin hoặc thuốc lợi tiểu giữ kali. Thuốc giảm đau chống viêm có thể làm giảm hiệu quả của một số loại thuốc hạ huyết áp.
Ảnh hưởng đến thận
Bệnh nhân suy thận hoặc gan, tăng huyết áp, hoặc suy tim và bệnh nhân cao tuổi nên được theo dõi chức năng thận và huyết động lực trong quá trình điều trị bằng naproxen. Nếu có thể, nên tránh dùng naproxen ở bệnh nhân suy thận trung bình. Chống chỉ định sử dụng naproxen ở bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin cơ bản dưới 30 mL/phút) hoặc suy gan nặng.
Mất nước trong quá trình sử dụng thuốc giảm đau chống viêm (NSAID) làm tăng nguy cơ suy thận cấp, vì vậy tình trạng mất nước có thể xảy ra của bệnh nhân nên được điều chỉnh trước khi bắt đầu điều trị bằng naproxen. Điều trị bằng naproxen nên được bắt đầu thận trọng ở những bệnh nhân có tiền sử mất nước đáng kể. Giống như các thuốc giảm đau chống viêm khác, điều trị lâu dài bằng naproxen gây hoại tử nhú thận và các biến đổi bệnh lý khác ở thận.
Độc tính trên thận cũng đã được phát hiện ở những bệnh nhân mà prostaglandin thận duy trì sự tưới máu thận. Ở những bệnh nhân này, việc sử dụng thuốc giảm đau chống viêm có thể gây giảm sự hình thành các prostaglandin phụ thuộc vào liều lượng, dẫn đến giảm tưới máu thận. Điều này có thể tiến triển thành suy thận. Nguy cơ cao nhất ở bệnh nhân cao tuổi, những bệnh nhân sử dụng thuốc lợi tiểu, thuốc ức chế men chuyển angiotensin hoặc thuốc đối kháng thụ thể angiotensin-II, và ở bệnh nhân suy thận, gan hoặc suy tim. Việc ngừng điều trị thường điều chỉnh tình trạng của bệnh nhân về mức trước khi điều trị.
Xuất huyết, loét và thủng đường tiêu hóa
Xuất huyết, loét hoặc thủng đường tiêu hóa, có thể gây tử vong, đã được báo cáo với tất cả các NSAID vào bất kỳ lúc nào trong quá trình điều trị, có hoặc không có các triệu chứng cảnh báo hoặc tiền sử các biến cố xuất huyết đường tiêu hóa nghiêm trọng trước đó.
Naproxen làm giảm sự hoạt hóa và kết tập tiểu cầu nhưng tác dụng này chỉ thoáng qua và kéo dài dưới 48 giờ sau khi dùng một liều duy nhất. Điều này cần được lưu ý khi điều trị cho bệnh nhân sau phẫu thuật có nguy cơ xuất huyết cao, bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông máu, bệnh nhân mắc bệnh máu khó đông, hoặc các bệnh nhân khác có các bệnh làm suy giảm chức năng của hệ thống đông máu hoặc bị giảm tiểu cầu. Nguy cơ xuất huyết đường tiêu hóa tăng ngay cả theo cơ chế này.
Nguy cơ xuất huyết, loét hoặc thủng đường tiêu hóa cao hơn khi tăng liều NSAID, ở những bệnh nhân có tiền sử loét, đặc biệt nếu có biến chứng xuất huyết hoặc thủng, và ở người cao tuổi. Những bệnh nhân này nên bắt đầu điều trị với liều thấp nhất có thể. Nên xem xét điều trị kết hợp với các chất bảo vệ (như misoprostol hoặc thuốc ức chế bơm proton) cho những bệnh nhân này, và cả cho những bệnh nhân cần dùng đồng thời acid acetylsalicylic liều thấp, hoặc các thuốc khác có khả năng làm tăng nguy cơ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa.
Bệnh nhân có tiền sử gặp phải tác dụng không mong muốn về đường tiêu hóa, đặc biệt là bệnh nhân cao tuổi, nên báo cáo bất kỳ triệu chứng bất thường nào ở bụng (đặc biệt là xuất huyết đường tiêu hóa) đặc biệt trong giai đoạn đầu điều trị. Cần thận trọng ở những bệnh nhân dùng đồng thời các thuốc có thể làm tăng nguy cơ loét hoặc chảy máu, chẳng hạn như corticosteroid uống, thuốc chống đông máu như warfarin, thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin hoặc thuốc chống tiểu cầu như acid acetylsalicylic.
Khi xuất huyết hoặc loét đường tiêu hóa xảy ra ở bệnh nhân dùng naproxen, nên ngừng điều trị.
NSAID nên được sử dụng cẩn thận cho những bệnh nhân có tiền sử bệnh đường tiêu hóa (viêm loét đại tràng, bệnh Crohn) vì tình trạng các bệnh này có thể trầm trọng hơn.
Tác dụng không mong muốn trên da
Các phản ứng da nghiêm trọng, một số gây tử vong, bao gồm viêm da tróc vảy, hội chứng Stevens-Johnsons và hoại tử biểu bì nhiễm độc, đã được báo cáo (rất hiếm gặp) liên quan đến việc sử dụng NSAID. Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất đối với những phản ứng này trong thời gian đầu của quá trình điều trị: sự khởi đầu của phản ứng xảy ra trong phần lớn các trường hợp trong tháng đầu tiên điều trị. Nên ngừng sử dụng naproxen khi xuất hiện triệu chứng ban đầu của phát ban, tổn thương niêm mạc hoặc bất kỳ dấu hiệu quá mẫn nào khác.
Phản ứng phản vệ (dạng phản vệ)
Phản ứng quá mẫn có thể xảy ra ở những người nhạy cảm. Phản ứng phản vệ (dạng phản vệ) có thể xảy ra ở cả bệnh nhân có và không có tiền sử quá mẫn hoặc tiếp xúc với aspirin, các thuốc chống viêm không steroid khác hoặc các sản phẩm có chứa naproxen. Chúng cũng có thể xảy ra ở những người có tiền sử phù mạch, phản ứng co giãn phế quản (như hen suyễn), viêm mũi và polyp mũi.
Phản ứng dạng phản vệ, như sốc phản vệ, có thể dẫn đến tử vong.
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và bệnh mô liên kết hỗn hợp
Ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và rối loạn mô liên kết hỗn hợp, có thể tăng nguy cơ viêm màng não vô khuẩn.
Ảnh hưởng đến mắt
Các nghiên cứu đã không cho thấy những thay đổi ở mắt do sử dụng naproxen. Trong một số trường hợp hiếm gặp, các rối loạn không mong muốn về mắt bao gồm viêm u nhú, viêm dây thần kinh thị giác và phù gai thị, đã được báo cáo ở những người dùng NSAID bao gồm naproxen, mặc dù không thể thiết lập mối quan hệ nguyên nhân và kết quả; do đó, những bệnh nhân bị rối loạn thị giác trong quá trình điều trị bằng các sản phẩm có chứa naproxen nên khám nhãn khoa.
Naproxen có thể làm giảm khả năng sinh sản của phụ nữ và không được khuyến cáo ở phụ nữ đang cố gắng thụ thai. Ở những phụ nữ gặp khó khăn trong việc thụ thai hoặc đang điều tra vô sinh, nên xem xét ngừng sử dụng naproxen.
Thuốc giảm đau chống viêm có thể làm trầm trọng thêm tình trạng co thắt phế quản ở những bệnh nhân bị bệnh dị ứng.
Cũng như các thuốc chống viêm không steroid khác, có thể xảy ra tăng cao của một hoặc nhiều xét nghiệm chức năng gan. Các bất thường về gan có thể là kết quả của quá mẫn hơn là do nhiễm độc trực tiếp. Các phản ứng nghiêm trọng ở gan, bao gồm vàng da và viêm gan (một số trường hợp viêm gan đã gây tử vong) đã được báo cáo với thuốc này cũng như với các thuốc chống viêm không steroid khác. Phản ứng chéo đã được báo cáo.
Bệnh gan mãn tính do rượu và có thể là các dạng xơ gan khác làm giảm tổng nồng độ naproxen trong huyết tương, nhưng nồng độ naproxen không liên kết trong huyết tương lại tăng lên. Ý nghĩa của phát hiện này đối với liều lượng naproxen vẫn chưa được biết nhưng cần thận trọng khi sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả. Chống chỉ định sử dụng naproxen cho bệnh nhân suy gan nặng.
Chứng giả phản vệ (nhạy cảm với da phồng rộp) đã được báo cáo ở 10% bệnh nhân thấp khớp trẻ em liên quan đến điều trị naproxen sau 4 tuần. Bệnh nhân nên được theo dõi về hiện tượng có thể đảo ngược này và nên ngừng sử dụng nếu các triệu chứng xảy ra.
Các tác dụng hạ sốt và chống viêm của naproxen có thể làm giảm sốt và viêm, do đó làm giảm công dụng của chúng như các dấu hiệu chẩn đoán.
Tá dược
Hỗn dịch uống naproxen chứa methyl parahydroxybenzoat và propyl parahydroxybenzoat có thể gây ra các phản ứng dị ứng (có thể chậm).
Naproxen hỗn dịch uống chứa 400 mg/mL sorbitol. Liều hàng ngày theo hướng dẫn là 1,6 g-20 g sorbitol. Bệnh nhân có vấn đề di truyền hiếm gặp về không dung nạp fructose không nên dùng thuốc này. Sorbitol có thể có tác dụng nhuận tràng nhẹ.
Sản phẩm thuốc này chứa 0,8 mg natri/mL, 24 mg natri trên mỗi liều 30 mL, tương đương với 1,2% mức tiêu thụ tối đa hàng ngày của WHO là 2 g natri cho một người lớn.
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Thông thường, naproxen không ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành hành máy móc. Các tác dụng không mong muốn đôi khi bao gồm mệt mỏi, khó tập trung, chóng mặt hoặc rối loạn thị giác. Nếu các triệu chứng này xảy ra, cần tránh lái xe ô tô hoặc sử dụng máy móc.
Sử dụng ở phụ nữ có thai & cho con bú
Phụ nữ có thai
Sự ức chế tổng hợp prostaglandin có thể ảnh hưởng xấu đến thai kỳ và/hoặc sự phát triển của phôi/thai nhi. Dữ liệu từ các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy nguy cơ sẩy thai, dị dạng tim và rối loạn dạ dày tăng sau khi sử dụng chất ức chế tổng hợp prostaglandin trong thời kỳ đầu mang thai. Nguy cơ tuyệt đối đối với dị dạng tim mạch và rối loạn dạ dày đã tăng từ dưới 1%, lên đến xấp xỉ 1,5%. Nguy cơ được cho là tăng theo liều lượng và thời gian điều trị. Ở động vật, việc sử dụng chất ức chế tổng hợp prostaglandin đã được chứng minh là làm tăng tỷ lệ mất trước và sau khi làm tổ và khả năng chết của phôi/thai. Ngoài ra, gia tăng tỷ lệ mắc các dị tật khác nhau, bao gồm cả tim mạch, đã được báo cáo ở động vật được sử dụng chất ức chế tổng hợp prostaglandin trong thời kỳ phát sinh cơ quan. Trong ba tháng đầu và ba tháng giữa của thai kỳ, không nên dùng naproxen trừ khi thật cần thiết. Nếu naproxen được sử dụng bởi một phụ nữ đang cố gắng thụ thai, hoặc trong ba tháng đầu và ba tháng giữa thai kỳ, nên sử dụng liều càng thấp và thời gian điều trị càng ngắn càng tốt.
Trong ba tháng cuối của thai kỳ, tất cả các chất ức chế tổng hợp prostaglandin có thể khiến thai nhi tiếp xúc với:
- Nhiễm độc cơ tim (với việc đóng sớm ống động mạch và tăng áp động mạch phổi)
- Rối loạn chức năng thận, có thể tiến triển thành suy thận với ít nước ối.
Vào cuối thai kỳ, tất cả các chất ức chế tổng hợp prostaglandin có thể khiến mẹ và trẻ sơ sinh tiếp xúc với:
- Kéo dài thời gian chảy máu vì tác dụng chống kết tụ của tiểu cầu, có thể xảy ra ngay cả khi dùng liều rất thấp
- Ức chế co bóp tử cung dẫn đến chuyển dạ chậm hoặc kéo dài.
Do đó, chống chỉ định sử dụng naproxen trong ba tháng cuối của thai kỳ.
Phụ nữ đang cho con bú
Naproxen được bài tiết một lượng rất nhỏ trong sữa mẹ. Khong khuyến cáo sử dụng naproxen trong thời kỳ cho con bú.
Tương tác
Probenecid làm chậm quá trình đào thải naproxen bằng cách cạnh tranh để glucuronid hóa và bài tiết mật và ống. Nếu các hoạt chất này được sử dụng đồng thời trong điều trị, v.d. bệnh gút, khuyến cáo giảm liều naproxen và theo dõi bệnh nhân cẩn thận để biết các phản ứng phụ có thể xảy ra.
Dùng đồng thời với thuốc kháng acid hoặc cholestyramin có thể làm chậm sự hấp thu của naproxen nhưng không ảnh hưởng đến mức độ của nó.
Dùng đồng thời cùng thức ăn có thể làm chậm sự hấp thu của naproxen nhưng không ảnh hưởng đến mức độ của nó.
Không nên dùng NSAID trong vòng 8-12 ngày sau khi dùng mifepriston do NSAID có thể làm giảm tác dụng của mifepriston.
Do tỷ lệ naproxen liên kết với protein huyết tương cao, nên bệnh nhân khi dùng đồng thời hydantoin, thuốc chống đông, NSAID khác, aspirin hoặc sulphonamid có tỷ lệ liên kết với protein cao cần được giám sát nếu có dấu hiệu quá liều của những thuốc này. Bệnh nhân dùng đồng thời naproxen và hydantoin, sulphonamid hoặc sulfonylurea nên được theo dõi để điều chỉnh liều nếu cần. Không có tương tác nào được ghi nhận trong các nghiên cứu lâm sàng với naproxen và thuốc chống đông hoặc sulfonylurea, nhưng vẫn nên thận trọng vì đã thấy có tương tác với các thuốc không steroid khác thuộc nhóm này. Dữ liệu trên động vật chỉ ra rằng NSAID có thể làm tăng nguy cơ co giật liên quan đến kháng sinh nhóm quinolon. Bệnh nhân dùng quinolon có thể tăng nguy cơ bị co giật.
Sử dụng đồng thời bisphosphonat và NSAID có thể làm tăng nguy cơ tổn thương niêm mạc dạ dày.
Sử dụng kết hợp với thuốc lợi tiểu, thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc đối kháng angiotensin II:
NSAID có thể làm giảm tác dụng hạ huyết áp của thuốc lợi tiểu và các thuốc hạ huyết áp khác. Ở một số bệnh nhân có chức năng thận bị tổn thương (như bệnh nhân mất nước hoặc bệnh nhân cao tuổi có chức năng thận bị tổn thương) việc sử dụng đồng thời thuốc ức chế men chuyển angiotensin hoặc thuốc đối kháng angiotensin II và các thuốc ức chế cyclo-oxygenase có thể làm suy giảm thêm chức năng thận, bao gồm cả suy thận cấp, thường có thể hồi phục. Do đó, sự kết hợp này nên được sử dụng một cách thận trọng, đặc biệt là ở người cao tuổi. Bệnh nhân cần được cung cấp đủ nước và nên theo dõi chức năng thận sau khi bắt đầu điều trị đồng thời và định kỳ sau đó. Thuốc lợi tiểu có thể làm tăng độc tính trên thận của thuốc giảm đau chống viêm.
Hơn nữa, tác dụng của các thuốc hạ huyết áp khác (thuốc chẹn beta) có thể giảm. Điều này cần được lưu ý khi bắt đầu dùng thuốc hạ huyết áp.
Naproxen không được dùng đồng thời với các thuốc giảm đau chống viêm khác vì có thể làm tăng tác dụng không mong muốn.
Acid acetylsalicylic:
Dữ liệu dược lực học lâm sàng cho thấy rằng việc sử dụng đồng thời naproxen trong hơn một ngày liên tục có thể ức chế tác dụng của acid acetylsalicylic liều thấp đối với hoạt động của tiểu cầu và sự ức chế này có thể kéo dài trong vài ngày sau khi ngừng điều trị bằng naproxen. Sự liên quan lâm sàng của tương tác này không được biết.
Acid acetylsalicylic thay thế naproxen tại các vị trí liên kết với protein trong huyết tương, giúp đẩy nhanh quá trình đào thải naproxen.
Corticosteroid: Tăng nguy cơ loét hoặc xuất huyết đường tiêu hóa. Nếu sử dụng đồng thời, cần theo dõi cẩn thận tình trạng của bệnh nhân.
Thuốc chống đông: Thuốc giảm đau chống viêm có thể làm tăng tác dụng của thuốc chống đông, chẳng hạn như warfarin.
Thuốc chống kết tập tiểu cầu và thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI): Nguy cơ xuất huyết tiêu hóa khi sử dụng đồng thời với naproxen.
Tương tác đáng kể giữa naproxen và thuốc uống hạ đường huyết hoặc thuốc chống động kinh khó xảy ra. Naproxen đã được chứng minh là có thể di chuyển acid valproic khỏi các vị trí liên kết với protein trong huyết tương, nhưng ý nghĩa lâm sàng của hiện tượng này có thể là nhỏ.
Nồng độ digoxin trong huyết thanh nên được theo dõi ở bệnh nhân suy thận và đang điều trị bằng digitalis, và nên điều chỉnh liều digoxin, nếu cần, nếu thêm hoặc loại bỏ naproxen khỏi thuốc.
Naproxen làm chậm quá trình đào thải liti. Cần theo dõi nồng độ liti huyết thanh và điều chỉnh liều lượng liti, nếu cần, nếu naproxen được thêm vào hoặc loại bỏ khỏi thuốc điều trị của bệnh nhân.
Naproxen có thể làm chậm quá trình thải trừ các kháng sinh methotrexat, ciclosporin và aminoglycosid (phụ thuộc trực tiếp vào quá trình lọc cầu thận) và làm tăng độc tính của chúng. Tuy nhiên, ít có khả năng tương tác khi điều trị bằng methotrexat liều thấp (ở liều được sử dụng trong điều trị các bệnh thấp khớp).
Naproxen có thể thay đổi liên kết với protein huyết tương của tacrolimus và gây độc cho thận. Nên thận trọng khi sử dụng kết hợp, và nếu có thể, nên được điều chỉnh liều lượng thuốc dựa trên xác định nồng độ trong huyết thanh.
Naproxen có thể thay đổi chuyển hóa của zidovudin. Ý nghĩa lâm sàng của hiện tượng này không được biết đến.
Naproxen có thể can thiệp vào các xét nghiệm nước tiểu để tìm steroid 17-ketogenic và acid 5-hydroxy-indoleacetic (chẩn đoán trong các bệnh tuyến thượng thận). Điều này có thể tránh được bằng cách ngừng sử dụng naproxen 72 giờ trước khi lấy mẫu.
Tác dụng không mong muốn
Tác dụng không mong muốn do sử dụng naproxen thường xảy ra trên đường tiêu hóa và hệ thần kinh trung ương, và thường phụ thuộc vào liều dùng.
Các thuật ngữ và tần suất dưới đây đã được dùng: Rất phổ biến: R ≥ 1/10; Phổ biến: 1/10 > R ≥ 1/100; Không phổ biến: 1/100 > R ≥ 1/1000; Hiếm gặp: 1/1.000 > R ≥ 1/10.000; Rất hiếm gặp: R < 1/10.000; Chưa biết: Khi không thể ước lượng từ dữ liệu sẵn có.
- xem Bảng 2.

Image from Drug Label Content
Quá liều
Triệu chứng:
Các triệu chứng quá liều bao gồm nhức đầu, ợ chua, buồn nôn, nôn, đau thượng vị, xuất huyết tiêu hóa, hiếm khi tiêu chảy, mất phương hướng, kích thích, buồn ngủ, chóng mặt, ù tai, ngất xỉu. Trong trường hợp ngộ độc đáng kể có thể suy thận cấp và tổn thương gan. Ở người lớn, dùng quá liều từ 5 đến 25 g đã được mô tả mà không có bất kỳ tác dụng không mong muốn cụ thể nào, tuy nhiên ở một số bệnh nhân dùng quá liều thấp 6-12 g đã gây ngộ độc nghiêm trọng (nhiễm toan chuyển hóa, suy thận, co giật, ngừng thở, ức chế hệ thần kinh trung ương).
Suy hô hấp và hôn mê có thể xảy ra sau khi uống NSAID nhưng rất hiếm.
Trong một trường hợp quá liều naproxen, việc kéo dài thoáng qua thời gian prothrombin do hạ calci huyết có thể là do ức chế chọn lọc tổng hợp các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K.
Một số bệnh nhân gặp phải cơn co giật, nhưng không rõ liệu những cơn co giật này có liên quan đến naproxen hay không. Không rõ liều lượng của thuốc sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
Xử trí:
Bệnh nhân cần được điều trị triệu chứng theo yêu cầu. Than hoạt nên được dùng cho bệnh nhân trong vòng một giờ để ức chế sự hấp thu và làm gián đoạn tuần hoàn gan ruột. Ngoài ra, ở người lớn nên cân nhắc rửa dạ dày trong vòng một giờ sau khi uống quá liều có thể đe dọa tính mạng.
Thẩm phân máu không làm giảm nồng độ naproxen trong huyết tương vì mức độ liên kết cao với protein. Tuy nhiên, thẩm phân máu vẫn có thể thích hợp ở bệnh nhân suy thận đã dùng naproxen. Thẩm tách máu có thể đẩy nhanh quá trình thải trừ chất chuyển hóa chính của naproxen, 6-O-demethylnaproxen.
Nên cân nhắc sử dụng thuốc chẹn H2 hoặc thuốc ức chế bơm proton để ngăn ngừa các biến chứng đường tiêu hóa. Cần đảm bảo lượng nước tiểu tốt. Chức năng thận và gan cần được theo dõi chặt chẽ.
Bệnh nhân nên được theo dõi ít nhất bốn giờ sau khi uống một lượng có thể gây độc. Co giật thường xuyên hoặc kéo dài nên được điều trị bằng diazepam tiêm tĩnh mạch.
Các biện pháp khác có thể được chỉ định tùy theo tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.
Bảo quản
Bảo quản: Bảo quản dưới 30oC.
Hạn dùng: 36 tháng kể từ ngày sản xuất.
Nên sử dụng sản phẩm trong vòng 6 tháng sau khi mở nắp.
Phân loại MIMS
Thuốc kháng viêm không steroid
Phân loại ATC
M01AE02 - naproxen ; Belongs to the class of propionic acid derivatives of non-steroidal antiinflammatory and antirheumatic products.
Trình bày/Đóng gói
Dạng
Propain Syrup Hỗn dịch uống 25 mg/mL
Trình bày/Đóng gói
100 mL x 1's
Đăng ký miễn phí để được tiếp tục đọc
Thư viện tin tức y khoa, tài liệu lâm sàng và đào tạo liên tục hàng đầu Châu Á
Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập