Nhóm dược lý: Thuốc chống động kinh, các thuốc chống động kinh khác.
Mã ATC: N03AX16
Hoạt chất pregabalin, là một chất tương tự acid gamma-aminobutyric[(S)-3-(aminomethyl)-5-methylhexanoic acid].
Cơ chế tác dụng
Pregabalin liên kết với một tiểu đơn vị phụ (α2-δ protein) của kênh canxi phụ thuộc điện thế ở hệ thần kinh trung ương.
An toàn và hiệu quả lâm sàng
Đau nguồn gốc thần kinh
Hiệu quả của thuốc đã được chứng minh qua các thử nghiệm lâm sàng bệnh lý thần kinh do đái tháo đường, đau dây thần kinh sau herpes và tổn thương tủy sống. Hiệu quả của thuốc chưa được nghiên cứu trong các trường hợp đau thần kinh khác.
Pregabalin được nghiên cứu trong 10 thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát với thời gian điều trị lên đến 13 tuần ở liều 2 lần/ngày (BID) và 8 tuần ở liều 3 lần/ngày (TID). Nhìn chung, các số liệu về an toàn và hiệu quả của phác đồ ở mức liều 2 lần/ngày và 3 lần/ngày là tương tự nhau.
Trong các thử nghiệm lâm sàng với thời gian điều trị lên tới 12 tuần trên bệnh nhân đau nguồn gốc thần kinh trung ương và ngoại vi, hiệu quả giảm đau xuất hiện sau một tuần và duy trì trong suốt thời gian điều trị.
Trong các thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát với đau nguồn gốc thần kinh ngoại vi, 35% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin và 18% bệnh nhân dùng giả dược có cải thiện 50% điểm đau. Với bệnh nhân không bị buồn ngủ, mức cải thiện này là 33% ở nhóm dùng pregabalin và 18% ở nhóm dùng giả dược. Với bệnh nhân có xuất hiện buồn ngủ, tỷ lệ đáp ứng là 48% ở nhóm điều trị bằng pregabalin và 16% ở nhóm dùng giả dược.
Trong thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát với đau nguồn gốc thần kinh trung ương, 22% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin và 7% bệnh nhân dùng giả dược có cải thiện 50% điểm đau.
Động kinh
Điều trị bổ trợ
Pregabalin đã được nghiên cứu trong 3 thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát trong khoảng thời gian 12 tuần với liều 2 lần/ngày (BID) hoặc 3 lần/ngày (TID). Nhìn chung, các số liệu an toàn và hiệu quả của cả hai mức liều 2 lần/ngày và 3 lần/ngày là tương tự nhau.
Đã quan sát thấy có sự giảm tần suất co giật ở tuần đầu tiên.
Trẻ em
Hiệu quả và an toàn của pregabalin trong điều trị bổ trợ bệnh động kinh ở trẻ em dưới 12 tuổi và thanh thiếu niên chưa được xác định. Trong một nghiên cứu về dược động học và khả năng dung nạp ở trẻ từ 3 tháng đến 16 tuổi (n = 65) bị động kinh cục bộ cho thấy các tác dụng ngoại ý xảy ra tương tự như ở người lớn.
Theo kết quả của một nghiên cứu có đối chứng với giả dược trong 12 tuần, đánh giá hiệu quả và độ an toàn của pregabalin trong điều trị bổ trợ khởi phát cơn động kinh cục bộ ở 295 trẻ từ 4 đến 16 tuổi và nghiên cứu công khai nhãn kéo dài 1 năm ở 54 trẻ từ 3 tháng đến 16 tuổi bị động kinh cho thấy rằng các tác dụng không mong muốn sốt và nhiễm trùng hô hấp xảy ra thường xuyên hơn so với các nghiên cứu trên người lớn bị động kinh.
Trong nghiên cứu đối chứng với giả dược trong 12 tuần, trẻ được chỉ định dùng pregabalin 2,5 mg/kg/ngày (tối đa 150 mg/ngày), pregabalin 10 mg/kg/ngày (tối đa 600 mg/ngày) hoặc giả dược, kết quả cho thấy tỉ lệ trẻ giảm được ít nhất 50% số cơn động kinh cục bộ khởi phát so với ban đầu là 40,6% ở trẻ dùng pregabalin 10 mg/kg/ngày (p = 0,0068 so với giả dược), 29,1% ở trẻ dùng pregabalin 2,5 mg/kg/ngày (p = 0,2600 so với giả dược) và 22,6% ở trẻ dùng giả dược.
Đơn trị liệu (bệnh nhân mới được chẩn đoán)
Pregabalin đã được nghiên cứu trong một thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát kéo dài 56 tuần với liều 2 lần/ngày (BID). Pregabalin không đạt mức không thua kém so với lamotrigine trên tiêu chí đánh giá không có cơn động kinh xuất hiện trong vòng 6 tháng điều trị. Tính an toàn của pregabalin tương tự lamotrigine và thuốc được dung nạp tốt.
Rối loạn lo âu lan tỏa
Pregabalin đã được nghiên cứu trong 6 thử nghiệm có kiểm soát kéo dài trong 4-6 tuần, một nghiên cứu trên bệnh nhân cao tuổi trong 8 tuần và một nghiên cứu phòng ngừa tái phát dài hạn với giai đoạn phòng ngừa tái phát được thực hiện mù đôi trong 6 tháng.
Đã ghi nhận có sự giảm các triệu chứng của GAD vào tuần đầu tiên, theo thang đánh giá mức độ lo âu Hamilton (HAM-A).
Trong các thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát kéo dài (4-8 tuần), 52% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin và 38% bệnh nhân dùng giả dược có cải thiện ít nhất 50% tổng điểm theo thang đánh giá mức độ lo âu HAM-A tại thời điểm đánh giá so với trước khi điều trị.
Trong các thử nghiệm có kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân bị nhìn mờ ở nhóm dùng pregabalin cao hơn so với nhóm dùng giả dược, phần lớn các trường hợp này đã tự khỏi khi tiếp tục dùng thuốc. Việc kiểm tra nhãn khoa (bao gồm kiểm tra thị lực, kiểm tra thị trường và soi đáy mắt có giãn đồng tử) đã được thực hiện trên 3.600 bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát. Ở những bệnh nhân này, 6,5% bệnh nhân điều trị bằng pregabalin và 4,8% bệnh nhân dùng giả dược được ghi nhận có sự giảm thị lực. Thay đổi thị trường mắt được ghi nhận ở 12,4% bệnh nhân điều trị bằng pregabalin và 11,7% ở bệnh nhân dùng giả dược. Thay đổi khi soi đáy mắt cũng được ghi nhận ở 1,7% bệnh nhân điều trị bằng pregabalin và 2,1% bệnh nhân dùng giả dược.