Gliptinestad

Gliptinestad

sitagliptin

Nhà sản xuất:

Stellapharm
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Thành phần
Gliptinestad 25 Mỗi viên: Sitagliptin 25 mg (dưới dạng sitagliptin phosphate monohydrate 32,12 mg)
Gliptinestad 50 Mỗi viên: Sitagliptin 50 mg (dưới dạng sitagliptin phosphate monohydrate 64,24 mg)
Gliptinestad 100 Mỗi viên: Sitagliptin 100 mg (dưới dạng sitagliptin phosphate monohydrate 128,48 mg)
Mô tả
Thành phần tá dược
Microcrystalline cellulose, croscarmellose sodium, dicalcium phosphate anhydrous, magnesium stearate, sodium stearyl fumarate, Kollicoat® Protect (gồm polyvinyl alcohol-polyethylene glycol graft copolymer, polyvinyl alcohol, silicon dioxide), talc, titanium dioxide, red iron oxide, yellow iron oxide.
Dạng bào chế
Viên nén bao phim.
Viên nén tròn, bao phim màu vàng nâu, hai mặt khum, một mặt khắc “
Image from Drug Label Content
”, một mặt trơn.
Dược lực học
Nhóm dược lý: Thuốc giảm glucose huyết, trừ insulin; Các chất ức chế dipeptidyl peptidase 4 (DPP-4).
Mã ATC: A10BH01.
Gliptinestad 25 thuộc nhóm thuốc uống trị tăng đường huyết, gọi là chất ức chế dipeptidyl peptidase 4 (DPP-4). Thuốc có tác dụng cải thiện đường huyết bằng cách làm tăng nồng độ các hormone incretin thể hoạt động. Các hormone incretin bao gồm peptide giống glucagon 1 (glucagon-like peptide-1 : GLP-1) và polypeptide kích thích tiết insulin và phụ thuộc vào glucose (glucose-dependent insulinotropic polypeptide: GIP), được phóng thích từ ruột suốt cả ngày, và tăng nồng độ đáp ứng với bữa ăn. Các hormone incretin này là thành phần của hệ thống nội sinh tham gia vào sự điều hòa sinh lý tình trạng cân bằng nội môi glucose. Khi nồng độ glucose bình thường hoặc tăng cao, GLP-1 và GIP làm tăng sự tổng hợp và phóng thích insulin từ các tế bào beta tuyến tụy qua các đường truyền tín hiệu nội bào liên kết với AMP vòng. Người ta đã chứng minh việc điều trị với GLP-1 hoặc với các chất ức chế DPP-4 trên các mô hình động vật bị đái tháo đường týp 2 đã làm cải thiện đáp ứng của tế bào beta đối với glucose và kích thích sinh tổng hợp và phóng thích insulin.
Sự hấp thu và sử dụng glucose tại mô gia tăng khi nồng độ insulin cao hơn. Ngoài ra, GLP-1 làm giảm tiết glucagon từ tế bào alpha tuyến tụy. Nồng độ glucagon giảm cùng với nồng độ insulin cao hơn dẫn đến giảm sản xuất glucose tại gan, gây giảm nồng độ glucose trong máu. Các tác dụng này của GLP-1 và GIP phụ thuộc vào glucose, vì vậy khi nồng độ glucose trong máu thấp, sự kích thích phóng thích insulin và ức chế tiết glucagon do GLP-1 không xảy ra. Đối với cả hai GLP-1 và GIP, khi nồng độ glucose cao hơn mức bình thường thì sự kích thích phóng thích insulin gia tăng. Hơn nữa, GLP-1 không làm suy giảm đáp ứng bình thường của glucagon đối với tình trạng đường huyết thấp. Hoạt tính của GLP-1 và GIP bị hạn chế bởi enzym DPP-4, đây là enzym nhanh chóng thủy phân các hormone incretin thành các chất không hoạt tính.
Sitagliptin ngăn ngừa DPP-4 thủy phân các hormone incretin, do đó làm tăng nồng độ các dạng hoạt tính của GLP-1 và GIP trong huyết tương. Bằng cách tăng nồng độ incretin dạng hoạt động, sitagliptin làm tăng phóng thích insulin và giảm nồng độ glucagon theo cách thức phụ thuộc vào glucose. Ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có tình trạng tăng đường huyết, sự thay đổi nồng độ insulin và glucagon này dẫn đến giảm nồng độ hemoglobin A1c (HbA1c) và giảm nồng độ glucose lúc đói và sau khi ăn. Cơ chế phụ thuộc vào glucose này khác biệt với cơ chế tác dụng của các sulfamid hạ đường huyết; các sulfamid hạ đường huyết làm tăng tiết insulin ngay cả khi nồng độ glucose huyết thấp và có thể dẫn đến hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 và ở đối tượng bình thường. Sitagliptin là một chất ức chế mạnh, chọn lọc cao trên enzymDPP-4 và không ức chế các enzym liên quan gần DPP-8 hoặc DPP-9 ở các nồng độ điều trị.
Trong một nghiên cứu kéo dài 2 ngày trên những người tình nguyện khỏe mạnh, đơn trị sitagliptin làm tăng nồng độ GLP-1 có hoạt tính, trong khi đơn trị metformin làm tăng nồng độ GLP-1 có hoạt tính và nồng độ toàn phần ở mức độ như nhau. Dùng đồng thời sitagliptin cùng với metformin gia tăng thêm nồng độ GLP-1 có hoạt tính. Sitagliptin, chứ không phải metformin, làm tăng nồng độ GIP có hoạt tính.
Dược động học
Hấp thu
Ở đối tượng khỏe mạnh dùng 1 liều 100 mg, sitagliptin được hấp thu nhanh chóng đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương (trung vị Tmax) 1-4 giờ sau khi uống thuốc, AUC trung bình của sitagliptin trong huyết tương là 8,52 μM•giờ, Cmax là 950 nM. Sinh khả dụng tuyệt đối khoảng 87%. Do uống thuốc trong bữa ăn nhiều chất béo không ảnh hưởng đến tác động lên dược động học, nên Gliptinestad có thể dùng cùng hoặc không cùng với thức ăn.
AUC của sitagliptin trong huyết tương tăng theo tỷ lệ liều. Tỷ lệ liều không được thiết lập cho Cmax và C24giờ (Cmax tăng lớn hơn so với tỷ lệ liều và C24giờ tăng ít hơn so với tỷ lệ theo liều).
Phân bố
Thể tích phân bố trung bình ở trạng thái cân bằng sau khi dùng liều đơn sitagliptin 100 mg đường tĩnh mạch ở đối tượng khỏe mạnh khoảng 198 lít. Tỷ lệ sitagliptin gắn kết thuận nghịch với các protein huyết tương thấp (38%).
Chuyển hóa
Sitagliptin được thải trừ chủ yếu trong nước tiểu ở dạng không biến đổi và một phần nhỏ dưới dạng chuyển hóa. Gần 79% sitagliptin được thải trừ dưới dạng không biến đổi trong nước tiểu.
Sau khi uống 1 liều sitagliptin có đánh dấu [14C], khoảng 16% chất có tính phóng xạ là các chất chuyển hóa của sitagliptin. Sáu chất chuyển hóa này được phát hiện ở nồng độ vết và được cho là không liên quan đến hoạt tính ức chế DPP-4 huyết tương của sitagliptin. Những nghiên cứu in vitro đã chứng minh enzym chủ yếu chịu trách nhiệm cho sự chuyển hóa hạn chế của sitagliptin là CYP3A4, với sự góp phần của CYP2C8.
Dữ liệu in vitro cho thấy sitagliptin không phải là chất ức chế CYP isozym CYP3A4, 2C8, 2C9, 2D6, 1A2, 2C19 hoặc 2B6, và không phải là chất cảm ứng của CYP3A4 và CYP1A2.
Thải trừ
Sau khi các đối tượng khỏe mạnh uống 1 liều sitagliptin [14C], khoảng 100% chất có tính phóng xạ được thải trừ trong phân (13%) hoặc nước tiểu (87%) trong 1 tuần dùng thuốc. Thời gian bán thải cuối cùng biểu kiến sau khi uống 1 liều sitagliptin 100 mg thì xấp xỉ 12,4 giờ và sự thanh thải qua thận khoảng 350 mL/phút.
Sitagliptin được đào thải chủ yếu qua thận với sự bài tiết chủ động qua ống thận. Sitagliptin là 1 chất nền đối với chất chuyên chở anion hữu cơ 3 ở người (human organic anion transporter-3: hOAT-3), vốn là chất có thể tham gia vào sự thải trừ sitagliptin qua thận. Vẫn chưa xác định được sự liên quan lâm sàng của hOAT-3 trong vận chuyển sitagliptin. Sitagliptin cũng là 1 chất nền của p-glycoprotein, mà chất này cũng có thể tham gia vào quá trình đào thải sitagliptin qua thận.
Tuy nhiên, cyclosporin, một chất ức chế p-glycoprotein không làm giảm sự thanh thải sitagliptin qua thận. Sitagliptin không phải là chất nền cho các chất chuyên chở OCT2 hoặc OAT1 hoặc PEPT1/2. In vitro, sitagliptin không ức chế vận chuyển qua trung gian OAT3 (IC50 = 160 μM) hoặc p-glycoprotein (lên đến 250 μM) ở nồng độ trong huyết tương có liên quan đến trị liệu. Trong một nghiên cứu lâm sàng, sitagliptin có ảnh hưởng nhỏ đến nồng độ digoxin trong huyết tương cho thấy sitagliptin có thể là chất ức chế nhẹ p-glycoprotein.
Các đặc tính ở bệnh nhân
Dược động học của sitagliptin ở những người khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường týp 2 thường tương tự nhau.
Suy thận:
Một nghiên cứu liều đơn, nhãn mở được tiến hành để đánh giá dược động học của sitagliptin (liều 50 mg) ở các bệnh nhân suy thận mạn tính với các mức độ khác nhau so với nhóm đối chứng khỏe mạnh bình thường. Nghiên cứu này gồm các bệnh nhân phân loại suy thận mức độ nhẹ, vừa và nặng, cũng như các bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối đang thẩm tách máu. Ngoài ra, ảnh hưởng của suy thận trên dược động học của sitagliptin ở bệnh nhân bị đái tháo đường týp 2 và suy thận nhẹ, vừa hoặc nặng (bao gồm cả bệnh thận giai đoạn cuối) đã được đánh giá bằng các phân tích dược động học theo dân số.
So sánh với các đối tượng khỏe mạnh bình thường, AUC của sitagliptin trong huyết tương đã tăng khoảng 1,2 lần và 1,6 lần ở bệnh nhân suy thận nhẹ (GFR ≥ 60 đến < 90 mL/phút) và bệnh nhân suy thận trung bình (GFR ≥ 45 đến < 60 mL/phút), theo thứ tự tương ứng. Do sự gia tăng này không liên quan đến lâm sàng nên không cần thiết phải điều chỉnh liều ở những bệnh nhân này.
AUC của sitagliptin trong huyết tương đã tăng khoảng 2 lần ở bệnh nhân suy thận vừa (GFR ≥ 30 đến < 45 mL/phút), và tăng khoảng 4 lần ở bệnh nhân suy thận nặng (GFR < 30 mL), bao gồm bệnh nhân có bệnh thận giai đoạn cuối đang được thẩm tách máu. Sitagliptin được loại bỏ vừa phải qua thẩm tách máu (13,5% sau 3-4 giờ thẩm tách máu, bắt đầu thẩm tách sau khi uống thuốc được 4 giờ). Để đạt nồng độ sitagliptin trong huyết tương tương tự như ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường, nên dùng liều thấp hơn ở bệnh nhân có GFR < 45 mL/phút.
Suy gan:
Không cần điều chỉnh liều sitagliptin ở bệnh nhân suy gan nhẹ hoặc vừa (điểm số Child-Pugh ≤ 9). Không có kinh nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân bị suy gan nặng (điểm số Child-Pugh > 9). Tuy nhiên, vì sitagliptin được đào thải chủ yếu qua thận, nên theo dự đoán suy gan nặng không tác động lên được động học của sitagliptin.
Người cao tuổi:
Không cần chỉnh liều theo tuổi. Tuổi tác không gây tác động có ý nghĩa lâm sàng lên dược động học của sitagliptin dựa trên phân tích dược động học theo dân số từ dữ liệu giai đoạn I và giai đoạn II. Đối tượng cao tuổi (65-80 tuổi) có nồng độ sitagliptin huyết tương cao hơn 19% so với đối tượng trẻ tuổi hơn.
Trẻ em:
Dược động học của sitagliptin (liều đơn 50 mg, 100 mg hoặc 200 mg) đã được nghiên cứu ở bệnh nhi tiểu đường týp 2 (10-17 tuổi). Ở những bệnh nhi này, nên điều chỉnh liều để AUC của sitagliptin trong huyết tương thấp hơn khoảng 18% so với bệnh nhân tiểu đường týp 2 trưởng thành dùng liều 100 mg. Không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng so với bệnh nhân trưởng thành dựa trên mối quan hệ dược động/dược lực giữa liều 50 mg và 100 mg. Chưa có nghiên cứu với sitagliptin được thực hiện ở bệnh nhân nhi < 10 tuổi.
Đặc tính trên những bệnh nhân khác:
Không cần điều chỉnh liều dựa trên giới tính, chủng tộc hoặc chỉ số khối cơ thể (BMI). Những đặc tính này không có tác động có ý nghĩa lâm sàng đối với dược động học của sitagliptin dựa theo phân tích tổng hợp từ các dữ liệu dược động học giai đoạn I và theo phân tích dược động học dân số từ dữ liệu lâm sàng giai đoạn I và II.
Chỉ định/Công dụng
Gliptinestad được chỉ định để cải thiện kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2:
- Đơn trị liệu:
+ Khi chế độ ăn kiêng và vận động thể lực đơn thuần không giúp kiểm soát đường huyết hiệu quả và khi bệnh nhân chống chỉ định hoặc không dung nạp metformin.
- Trị liệu kép bằng đường uống kết hợp với:
+ Metformin: Khi chế độ ăn kiêng và vận động thể lực cùng với metformin đơn trị liệu không kiểm soát đường huyết thích đáng.
+ Sulphonylurea: Khi chế độ ăn kiêng và vận động thể lực cùng với liều dung nạp tối đa của sulphonylurea đơn trị liệu không kiểm soát đường huyết thích đáng và khi metformin không phù hợp do chống chỉ định hoặc không dung nạp.
+ Chất chủ vận PPARγ (như thiazolidinedione): Khi việc dùng chất chủ vận PPARγ là thích hợp và khi chế độ ăn kiêng và vận động thể lực cùng với chất chủ vận PPARγ đơn trị liệu không kiểm soát đường huyết thích đáng.
Trị liệu với 3 thuốc bằng đường uống kết hợp với:
+ Sulphonylurea và metformin: Khi hai loại thuốc này cùng chế độ ăn kiêng và vận động thể lực không kiểm soát đường huyết thích đáng.
+ Chất chủ vận PPARγ và metformin: Khi việc dùng chất chủ vận PPARγ là thích hợp và khi hai loại thuốc này cùng chế độ ăn kiêng và vận động thể lực không kiểm soát đường huyết thích đáng.
Gliptinestad cũng được chỉ định kết hợp với insulin (cùng hoặc không cùng metformin) khi chế độ ăn kiêng và vận động thể lực cùng với liều ổn định insulin không kiểm soát đường huyết thích đáng.
Liều dùng/Hướng dẫn sử dụng
Cách dùng
Gliptinestad có thể uống cùng hoặc không cùng thức ăn.
Liều dùng
Liều dùng 100 mg sitagliptin x 1 lần/ngày. Khi dùng kết hợp với metformin và/hoặc chất chủ vận PPARγ, nên duy trì liều metformin và/hoặc chất chủ vận PPARγ và sử dụng đồng thời với sitagliptin. Khi dùng sitagliptin kết hợp với sulphonylurea hoặc với insulin, có thể xem xét dùng liều sulphonylurea hoặc insulin thấp hơn nhằm giảm nguy cơ hạ đường huyết. Nếu bỏ lỡ một liều Gliptinestad, nên uống ngay khi nhớ. Không nên dùng liều gấp đôi trong cùng một ngày.
Các đối tượng đặc biệt
Suy thận
Khi xem xét dùng sitagliptin kết hợp với một thuốc chống đái tháo đường khác, cần kiểm tra các điều kiện dùng thuốc ở bệnh nhân suy thận.
Đối với bệnh nhân suy thận nhẹ (mức lọc cầu thận [GFR] ≥ 60 đến < 90 mL/phút), không cần chỉnh liều sitagliptin.
Đối với bệnh nhân suy thận vừa (GFR ≥ 45 đến < 60 mL/phút), không cần chỉnh liều sitagliptin.
Đối với bệnh nhân suy thận vừa (GFR ≥ 30 đến < 45 mL/phút), liều sitagliptin là 50 mg x 1 lần/ngày.
Đối với bệnh nhân suy thận nặng (GFR ≥ 15 đến < 30 mL/phút) hoặc bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) (GFR < 15 mL/phút), bao gồm các bệnh nhân cần thẩm tách máu hoặc thẩm phân phúc mạc, liều sitagliptin là 25 mg x 1 lần/ngày. Có thể dùng sitagliptin bất kỳ lúc nào, không liên quan đến thời điểm thẩm tách máu.
Do có sự điều chỉnh liều dựa trên chức năng thận, nên đánh giá chức năng thận trước khi bắt đầu dùng Gliptinestad và định kỳ sau đó.
Suy gan
Không cần điều chỉnh liều cho bệnh nhân suy gan nhẹ đến vừa.
Sitagliptin chưa được nghiên cứu ở những bệnh nhân suy gan nặng và cần thận trọng.
Tuy nhiên, vì sitagliptin chủ yếu được thải trừ qua thận, nên suy gan nặng sẽ không ảnh hưởng đến dược động học của sitagliptin.
Người cao tuổi
Không cần điều chỉnh liều dựa trên tuổi.
Trẻ em
Không nên dùng sitagliptin cho trẻ em và thanh thiếu niên từ 10 đến17 tuổi vì không đủ hiệu quả. Sitagliptin chưa được nghiên cứu ở trẻ em dưới 10 tuổi.
Chống chỉ định
Quá mẫn với sitagliptin hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Cảnh báo và thận trọng
Tổng quát
Không nên dùng Gliptinestad ở những bệnh nhân đái tháo đường týp 1 hoặc để điều trị nhiễm toan ceton ở bệnh nhân đái tháo đường.
Viêm tụy cấp
Việc sử dụng các chất ức chế DPP-4 có liên quan đến nguy cơ gây viêm tụy cấp. Bệnh nhân nên được thông báo về các triệu chứng đặc trưngcủa viêm tụy cấp như đau bụng dữ dội kéo dài. Viêm tụy được ghi nhận hồi phục sau khi ngưng dùng sitagliptin (có hoặc không có điều trị hỗ trợ), nhưng đã có báo cáo về các trường hợp rất hiếm gặp là viêm tụy hoại tử hoặc xuất huyết và/hoặc tử vong. Nếu nghi ngờ viêm tụy, nên ngưng dùng Gliptinestad và các thuốc có khả năng nghi ngờ khác; nếu được chẩn đoán viêm tụy cấp, không nên dùng lại Gliptinestad. Cần thận trọng ở những bệnh nhân có tiền sử viêm tụy.
Hạ đường huyết khi dùng kết hợp với các thuốc trị tăng đường huyết khác
Trong các thử nghiệm lâm sàng với sitagliptin theo đơn trị liệu và theo trị liệu kết hợp với các thuốc được biết rõ không gây hạ đường huyết (như metformin và/hoặc chất chủ vận PPARγ), tỷ lệ các báo cáo hạ đường huyết khi dùng sitagliptin tương tự như ở bệnh nhân dùng giả dược. Đã quan sát thấy hạ đường huyết khi sitagliptin được dùng kết hợp với insulin hoặc sulphonylurea. Do đó, để giảm nguy cơ hạ đường huyết, có thể xem xét giảm liều sulphonylurea hoặc insulin.
Suy thận
Sitagliptin được thải trừ qua thận. Để đạt được nồng độ sitagliptin trong huyết tương tương tự như ở những bệnh nhân có chức năng thận bình thường, nên giảm liều ở những bệnh nhân có GFR < 45 mL/phút, cũng như ở những bệnh nhân có bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) cần thẩm tách máu hoặc thẩm phân phúc mạc.
Khi xem xét việc sử dụng sitagliptin kết hợp với thuốc trị đái tháo đường khác, cần kiểm tra các điều kiện dùng thuốc ở bệnh nhân suy thận.
Phản ứng quá mẫn
Đã có báo cáo sau lưu hành về các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng ở những bệnh nhân dùng sitagliptin. Các phản ứng này bao gồm sốc phản vệ, phù mạch và các bệnh lý da tróc vảy bao gồm hội chứng Stevens-Johnson. Các phản ứng này bắt đầu xuất hiện trong vòng 3 tháng đầu sau khi bắt đầu điều trị, một số báo cáo xảy ra sau liều đầu tiên. Nếu nghi ngờ phản ứng quá mẫn, nên ngưng dùng Gliptinestad. Nên đánh giá các nguyên nhân tiềm tàng khác và bắt đầu cách trị liệu thay thế cho bệnh đái tháo đường.
Bóng nước pemphigoid
Đã có báo cáo sau lưu hành về trường hợp bóng nước pemphigoid ở bệnh nhân dùng thuốc ức chế DPP-4 bao gồm sitagliptin. Nếu nghi ngờ bóng nước pemphigoid, nên ngưng dùng Gliptinestad.
Ảnh hưởng của thuốc lên khả năng lái xe, vận hành máy móc
Gliptinestad 25 không có hoặc có ảnh hưởng không đáng kể đến khả năng lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, khi lái xe hoặc vận hành máy móc, cần lưu ý rằng đã có báo cáo về việc chóng mặt và buồn ngủ. Ngoài ra, nên cảnh báo với bệnh nhân về nguy cơ hạ đường huyết khi dùng kết hợp Gliptinestad với sulphonylurea hoặc insulin.
Sử dụng ở phụ nữ có thai & cho con bú
Phụ nữ có thai
Chưa có dữ liệu đầy đủ về việc dùng sitagliptin ở phụ nữ có thai. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy độc tính sinh sản ở liều cao. Chưa xác định được nguy cơ tiềm ẩn trên người. Do thiếu dữ liệu trên người, không nên dùng Gliptinestad cho phụ nữ có thai.
Phụ nữ cho con bú
Chưa biết sitagliptin có bài tiết qua sữa mẹ hay không. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy sitagliptin có bài tiết qua sữa. Không nên dùng Gliptinestad cho phụ nữ cho con bú.
Khả năng sinh sản
Dữ liệu trên động vật cho thấy việc điều trị bằng sitagliptin không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của con đực và con cái. Dữ liệu trên người vẫn còn thiếu.
Tương tác
Ảnh hưởng của các thuốc khác trên sitagliptin
Dữ liệu lâm sàng cho thấy các thuốc điều trị phối hợp có nguy cơ tương tác có ý nghĩa lâm sàng thấp.
Các nghiên cứu in vitro cho thấy enzym chịu trách nhiệm chủ yếu cho việc chuyển hóa hạn chế của sitagliptin là CYP3A4, với sự góp phần của CYP2C8. Ở những bệnh nhân có chức năng thận bình thường, chuyển hóa thông qua CYP3A4 chỉ đóng vai trò nhỏ trong việc thanh thải sitagliptin. Chuyển hóa có thể đóng vai trò quan trọng hơn trong việc thải trừ sitagliptin trong trường hợp suy thận nặng hoặc bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD). Vì lý do này, các chất ức chế CYP3A4 mạnh (như ketoconazole, itraconazole, ritonavir, clarithromycin) có thể làm thay đổi dược động học của sitagliptin ở bệnh nhân suy thận nặng hoặc ESRD. Tác động của chất ức chế mạnh CYP3A4 trong suy thận chưa được đánh giá trong nghiên cứu lâm sàng.
In vitro cho thấy sitagliptin là chất nền cho p-glycoprotein và chất chuyên chở anion hữu cơ-3 (OAT3). Sự vận chuyển qua trung gian OAT3 của sitagliptin bị ức chế in vitro bởi probenecid, mặc dù nguy cơ tương tác có ý nghĩa lâm sàng thấp. Việc sử dụng đồng thời các chất ức chế OAT3 chưa được đánh giá in vivo.
Metformin: Dùng đồng thời 1.000 mg metformin cùng với 50 mg sitagliptin ngày 2 lần không làm thay đổi có ý nghĩa dược động học của sitagliptin ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2.
Ciclosporin: Một nghiên cứu đánh giá tác động của ciclosporin, một chất ức chế mạnh p-glycoprotein, trên dược động học của sitagliptin. Dùng đồng thời một liều đơn sitagliptin 100 mg cùng với một liều đơn ciclosporin 600 mg, AUC và Cmax của sitagliptin tăng xấp xỉ 29% và 68% tương ứng. Những thay đổi này trong dược động học của sitagliptin được xem không có ý nghĩa lâm sàng. Độ thanh thải của sitagliptin thay đổi không có ý nghĩa. Do đó, không có tương tác có ý nghĩa với các chất ức chế p-glycoprotein khác.
Ảnh hưởng của sitagliptin trên các thuốc khác
Digoxin: Sitagliptin có ảnh hưởng nhỏ trên nồng độ digoxin trong huyết tương. Sau khi dùng 0,25 mg digoxin cùng với 100 mg sitagliptin mỗi ngày trong 10 ngày, AUC của digoxin trong huyết tương tăng trung bình 11% và Cmax trong huyết tương tăng trung bình 18%. Không nên điều chỉnh liều digoxin. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân có nguy cơ ngộ độc digoxin nên được theo dõi khi dùng đồng thời sitagliptin và digoxin.
Dữ liệu in vitro cho thấy sitagliptin không ức chế cũng không cảm ứng các isoenzym CYP450. Trong các nghiên cứu lâm sàng, sitagliptin không làm thay đổi có ý nghĩa dược động học của metformin, glyburide, simvastatin, rosiglitazone, warfarin, hoặc thuốc tránh thai đường uống, cung cấp dữ liệu in vivo cho thấy khả năng tương tác với các chất nền CYP3A4, CYP2C8, CYP2C9 và chất vận chuyển cation hữu cơ (OCT) thấp. Sitagliptin có thể là chất ức chế nhẹ p-glycoprotein in vivo.
Tương kỵ
Do không có các nghiên cứu về tính tương kỵ của thuốc, không trộn lẫn thuốc này với các thuốc khác.
Tác dụng không mong muốn
Rất thường gặp (≥ 1/10); thường gặp (≥ 1/100 đến < 1/10); ít gặp (≥ 1/1.000 đến < 1/100); hiếm gặp (≥ 1/10.000 đến < 1/1.000); rất hiếm gặp (< 1/10.000) và chưa biết (không thể tiên đoán được từ dữ liệu có sẵn).
Máu và hệ bạch huyết
Hiếm gặp: Giảm tiểu cầu.
Hệ miễn dịch
Chưa rõ tần suất: Phản ứng quá mẫn bao gồm phản ứng phản vệ.
Chuyển hóa và dinh dưỡng
Thường gặp: Hạ đường huyết.
Hệ thần kinh
Thường gặp: Đau đầu.
Ít gặp: Chóng mặt.
Hô hấp, lồng ngực và trung thất
Chưa rõ tần suất: Bệnh phổi kẽ.
Tiêu hóa
Ít gặp: Táo bón.
Chưa rõ tần suất: Nôn, viêm tụy cấp, viêm tụy xuất huyết và hoại tử gây tử vong và không gây tử vong.
Da và mô dưới da
Ít gặp: Ngứa.
Chưa rõ tần suất: Phù mạch, phát ban, nổi mày đay, viêm mao mạch, các bệnh lý da tróc vảy kể cả hội chứng Stevens-Johnson, bóng nước pemphigoid.
Cơ xương và mô liên kết
Chưa rõ tần suất: Đau khớp, đau cơ, đau lưng, bệnh khớp.
Thận và tiết niệu
Chưa rõ tần suất: Suy giảm chức năng thận, suy thận cấp.
Quá liều
Trong những thử nghiệm lâm sàng có đối chứng người khỏe mạnh, sitagliptin liều đơn đến 800 mg được dung nạp tốt. Trong một nghiên cứu dùng liều 800 mg sitagliptin, khoảng QTc tăng rất ít và không liên quan đến lâm sàng. Chưa có kinh nghiệm dùng các liều cao hơn 800 mg trong nghiên cứu lâm sàng. Trong các nghiên cứu giai đoạn I về chế độ nhiều liều trong ngày, người ta không tìm thấy các tác dụng không mong muốn trên lâm sàng liên quan đến liều khi dùng sitagliptin đến liều 600 mg/ngày trong 10 ngày và 400 mg/ngày trong 28 ngày.
Trong trường hợp quá liều, nên áp dụng các biện pháp hỗ trợ thườngdùng, như loại bỏ chất chưa kịp hấp thu khỏi đường tiêu hóa, theo dõi trên lâm sàng (bao gồm làm điện tâm đồ) và trị liệu nâng đỡ, nếu cần.
Sitagliptin có thể được thẩm tách vừa phải. Trong nghiên cứu lâm sàng, khoảng 13,5% liều dùng được loại bỏ sau 3-4 giờ thẩm tách máu. Có thể xem xét thẩm tách máu kéo dài nếu phù hợp trên lâm sàng. Vẫn chưa biết rõ thẩm phân phúc mạc có thể thẩm tách được sitagliptin hay không.
Bảo quản
Bảo quản trong bao bì kín, nơi khô. Nhiệt độ không quá 30oC
Hạn dùng: 36 tháng kể từ ngày sản xuất.
Phân loại MIMS
Thuốc trị đái tháo đường
Phân loại ATC
A10BH01 - sitagliptin ; Belongs to the class of dipeptidyl peptidase 4 (DPP-4) inhibitors. Used in the treatment of diabetes.
Trình bày/Đóng gói
Dạng
Gliptinestad 100 Viên nén bao phim 100 mg
Trình bày/Đóng gói
2 × 14's
Dạng
Gliptinestad 25 Viên nén bao phim 25 mg
Trình bày/Đóng gói
2 × 14's
Dạng
Gliptinestad 50 Viên nén bao phim 50 mg
Trình bày/Đóng gói
2 × 14's
Đăng ký miễn phí để được tiếp tục đọc
Thư viện tin tức y khoa, tài liệu lâm sàng và đào tạo liên tục hàng đầu Châu Á
Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập