Nhóm dược lý điều trị: Nội tiết tố sinh dục và các chất điều biến hệ sinh dục; các progestogen và estrogen, dạng kết hợp cố định, mã ATC: G03AA15.
Cơ chế tác dụng
Dùng Belara liên tục trong 21 ngày làm ức chế sự bài tiết FSH và LH của tuyến yên và do đó ức chế sự rụng trứng. Niêm mạc tử cung tăng sinh và có sự thay đổi về bài tiết. Tính đồng nhất của chất nhầy cổ tử cung bị thay đổi. Điều này ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng qua ống cổ tử cung và làm thay đổi tính di động của tinh trùng.
Liều thấp nhất hàng ngày của chlormadinon acetat để có tác dụng ức chế hoàn toàn sự rụng trứng là 1,7 mg. Liều cần thiết để biến đổi hoàn toàn nội mạc tử cung là 25 mg cho mỗi chu kỳ.
Chlormadinon acetat là một progestogen kháng androgen. Tác dụng của thuốc là do khả năng thay thế androgen trên các thụ thể của nó.
Hiệu quả lâm sàng
Trong các nghiên cứu lâm sàng sử dụng viên nén bao phim chứa 0,03 mg ethinylestradiol và 2 mg chlormadinon acetat kéo dài lên đến tối đa 2 năm, trên 1.655 phụ nữ và hơn 22.000 chu kỳ kinh nguyệt, đã có 12 trường hợp mang thai. Trong đó, có 7 phụ nữ có các yếu tố kèm theo sau đây xảy ra trong thời gian tránh thai: dùng thuốc không đúng cách, có các bệnh mắc kèm gây buồn nôn hoặc nôn, hoặc dùng cùng các thuốc đã biết làm giảm tác dụng của thuốc tránh thai nội tiết.
- xem Bảng 1.

Đặc tính dược động học
Chlormadinon acetat (CMA)
Hấp thu: Sau khi uống, CMA được hấp thu nhanh và gần như hoàn toàn. Sinh khả dụng toàn thân của CMA cao do thuốc không qua chuyển hóa lần đầu. Nồng độ đỉnh huyết tương đạt được sau 1-2 giờ.
Phân bố: CMA gắn kết với protein huyết tương người, chủ yếu là albumin với tỷ lệ trên 95%. CMA không có ái lực gắn kết với SHBG hoặc CBG. CMA được tích trữ chủ yếu trong mô mỡ.
Chuyển hóa: Quá trình khử hóa, oxy hóa và liên hợp glucuronid và sulphat hóa tạo ra nhiều chất chuyển hóa khác nhau. Các chất chuyển hóa chủ yếu trong huyết tương người là 3α- và 3β-hydroxy-CMA có nửa đời sinh học không khác biệt nhiều so với CMA không được chuyển hóa. Chất chuyển hóa 3-hydroxy có hoạt tính kháng androgen tương tự CMA. Trong nước tiểu, các chất chuyển hóa xuất hiện chủ yếu dưới dạng liên hợp. Dưới tác dụng của enzym, chất chuyển hóa chính là 2α-hydroxy-CMA bên cạnh các chất chuyển hóa 3-hydroxy- và dihydroxy.
Thải trừ: CMA bị thải trừ khỏi huyết tương với thời gian bán thải trung bình khoảng 34 giờ (sau một liều đơn) và khoảng 36-39 giờ (sau nhiều liều lặp lại). Sau khi uống, CMA và các chất chuyển hóa được thải trừ qua cả thận và phân với lượng tương đương nhau.
Ethinylestradiol (EE)
Hấp thu: EE được hấp thu nhanh và gần như hoàn toàn sau khi uống và nồng độ đỉnh trung bình huyết tương đạt được sau 1,5 giờ. Vì có liên hợp tiền hệ thống và chuyển hóa lần đầu tại gan, sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc chỉ khoảng 40%, cho thấy có sự biến thiên đáng kể giữa các cá thể (20-65%).
Phân bố: Nồng độ EE huyết tương được báo cáo trong y văn có sự khác nhau đáng kể. Khoảng 98% EE gắn kết với protein huyết tương, chủ yếu với albumin.
Chuyển hóa: Tương tự các estrogen tự nhiên, EE được chuyển hóa sinh học theo con đường hydroxyl hóa vòng thơm (qua trung gian cytochrom P-450). Chất chuyển hóa chính là 2-hydroxy-EE, chất này được tiếp tục chuyển hóa và liên hợp. EE trải qua liên hợp tiền hệ thống tại niêm mạc ruột non và tại gan. Thuốc được tìm thấy chủ yếu dưới dạng liên hợp glucuronid trong nước tiểu và chủ yếu dưới dạng sulphat trong dịch mật và huyết tương.
Thải trừ: Nửa đời trung bình trong huyết tương của EE là khoảng 12-14 giờ. EE được bài tiết qua thận và phân với tỷ lệ 2:3. Dạng sulphat của EE được bài xuất vào dịch mật sau khi bị thủy phân bởi hệ vi khuẩn đường ruột sẽ đi vào chu kỳ gan ruột.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Độc tính cấp của estrogen là thấp. Bởi vì có các khác biệt rõ rệt giữa các loài động vật thí nghiệm và con người, các kết quả nghiên cứu trên động vật với estrogen chỉ có thể cho các giá trị dự đoán hạn chế trên người. Ethinylestradiol, một estrogen tổng hợp thường được sử dụng trong các thuốc tránh thai nội tiết, gây chết bào thai trên động vật thí nghiệm thậm chí ở liều tương đối thấp; các bất thường đường niệu sinh dục và nữ hóa bào thai nam đã được quan sát thấy. Các ảnh hưởng này được coi là đặc hiệu theo loài.
Chlormadinon acetat gây chết bào thai trên thỏ, chuột cống và chuột nhắt. Hơn nữa, tính gây quái thai đã được quan sát thấy trên thỏ ở liều gây độc với bào thai, và trên chuột nhắt thậm chí ở mức liều thử nghiệm thấp nhất (1 mg/kg/ngày). Ý nghĩa của các kết quả này đối với việc dùng thuốc trên người là chưa rõ ràng.
Dữ liệu tiền lâm sàng từ các nghiên cứu quy ước về độc tính mạn, độc tính trên di truyền và khả năng gây ung thư cho thấy thuốc không gây nguy cơ đặc biệt trên người ngoại trừ những vấn đề đã được mô tả trong các mục khác của tờ tóm tắt đặc tính thuốc.