ATOZET
ATOZET đã được chứng minh là tương đương sinh học đối với việc dùng đồng thời các liều tương ứng của viên nén ezetimibe và atorvastatin.
Hấp thu
ATOZET
Các ảnh hưởng của một bữa ăn nhiều chất béo trên dược động học của ezetimibe và atorvastatin khi được dùng dưới dạng viên nén ATOZET tương đương với các ảnh hưởng đã được báo cáo đối với viên nén của từng chất riêng biệt.
Ezetimibe
Sau khi dùng đường uống, ezetimibe được hấp thu nhanh và được liên hợp mạnh thành một phenolic glucuronide có hoạt tính dược lý (ezetimibe-glucuronide). Nồng độ tối đa (Cmax) trung bình trong huyết tương xảy ra trong vòng 1-2 giờ đối với ezetimibe-glucuronide và 4-12 giờ đối với ezetimibe. Không thể xác định sinh khả dụng tuyệt đối của ezetimibe vì hợp chất này hầu như không tan trong môi trường nước thích hợp để tiêm.
Dùng đồng thời với thức ăn (bữa ăn nhiều chất béo hoặc bữa ăn không chất béo) không có ảnh hưởng trên sinh khả dụng đường uống của ezetimibe khi được dùng dưới dạng viên nén ezetimibe 10 mg.
Atorvastatin
Atorvastatin được hấp thu nhanh sau khi dùng đường uống; nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) xảy ra trong vòng 1-2 giờ. Mức độ hấp thu tăng tỷ lệ với liều atorvastatin. Sau khi dùng đường uống, viên nén bao phim atorvastatin có sinh khả dụng 95% đến 99% so với dung dịch uống. Sinh khả dụng tuyệt đối của atorvastatin khoảng 12% và sinh khả dụng toàn thân của hoạt tính ức chế HMG-CoA reductase khoảng 30%. Sinh khả dụng toàn thân thấp được cho là do sự thanh thải trước khi vào tuần hoàn toàn thân ở niêm mạc đường tiêu hóa và/hoặc sự chuyển hóa qua gan lần đầu.
Phân bố
Ezetimibe
Ezetimibe gắn kết 99,7% và ezetimibe-glucuronide gắn kết 88-92% với protein huyết tương người.
Atorvastatin
Thể tích phân bố trung bình của atorvastatin khoảng 381 lít. Atorvastatin gắn kết ≥ 98% với protein huyết tương.
Chuyển hóa
Ezetimibe
Ezetimibe được chuyển hóa chủ yếu ở ruột non và gan qua sự liên hợp glucuronide (phản ứng giai đoạn II) với sự bài tiết mật sau đó. Sự chuyển hóa oxy hóa tối thiểu (phản ứng giai đoạn I) đã được quan sát thấy trong tất cả các loài được đánh giá. Ezetimibe và ezetimibe-glucuronide là những hợp chất chuyển hóa chính của thuốc được phát hiện trong huyết tương, ezetimibe chiếm khoảng 10-20% và ezetimibe-glucuronide chiếm khoảng 80-90% tổng lượng thuốc trong huyết tương. Cả ezetimibe và ezetimibe-glucuronide được thải trừ dần dần khỏi huyết tương với bằng chứng tái tuần hoàn ruột-gan đáng kể. Thời gian bán hủy của ezetimibe và ezetimibe-glucuronide khoảng 22 giờ.
Atorvastatin
Atorvastatin được chuyển hóa bởi cytochrom P450 3A4 thành các dẫn xuất hydroxy hóa ở vị trí ortho và para và các sản phẩm beta-oxy hóa khác nhau. Ngoài các con đường khác, những sản phẩm này được chuyển hóa thêm thông qua sự glucuronide hóa. In vitro sự ức chế HMG-CoA reductase bởi các chất chuyển hóa hydroxy hóa ở vị trí ortho và para tương đương với atorvastatin. Khoảng 70% hoạt tính ức chế đối với HMG-CoA reductase trong tuần hoàn được cho là do các chất chuyển hóa có hoạt tính.
Thải trừ
Ezetimibe
Sau khi dùng 14C-ezetimibe (20 mg) đường uống cho người, ezetimibe toàn phần chiếm khoảng 93% tổng liều có đánh dấu phóng xạ trong huyết tương. Khoảng 78% và 11% liều có đánh dấu phóng xạ đã dùng được tìm thấy theo thứ tự trong phân và trong nước tiểu tương ứng, trong thời gian thu thập 10 ngày. Sau 48 giờ, không có mức liều có đánh dấu phóng xạ nào được phát hiện trong huyết tương.
Atorvastatin
Atorvastatin được thải trừ chủ yếu qua mật sau khi chuyển hóa qua gan và/hoặc ngoài gan. Tuy nhiên, thuốc dường như không trải qua quá trình tái tuần hoàn ruột gan đáng kể. Thời gian bán thải của atorvastatin trung bình trong huyết tương ở người khoảng 14 giờ. Thời gian bán hủy của hoạt tính ức chế đối với HMG-CoA reductase khoảng 20-30 giờ do sự góp phần của các chất chuyển hóa có hoạt tính.
Các nhóm bệnh nhân đặc biệt
Suy thận
Ezetimibe
Sau một liều đơn ezetimibe 10 mg ở những bệnh nhân bị bệnh thận nặng (n=8; độ thanh thải creatinin (CrCl) trung bình ≤ 30 mL/phút/1,73m2), diện tích dưới đường cong (AUC) trung bình của ezetimibe toàn phần tăng khoảng 1,5 lần so với các đối tượng khỏe mạnh (n=9).
Một bệnh nhân trong nghiên cứu này (sau ghép thận và dùng nhiều thuốc, bao gồm cả cyclosporin) có nồng độ của ezetimibe toàn phần cao hơn gấp 12 lần.
Atorvastatin
Bệnh thận không ảnh hưởng đến nồng độ trong huyết tương hoặc ảnh hưởng trên lipid của atorvastatin và các chất chuyển hóa có hoạt tính.
Suy gan
Ezetimibe
Sau một liều đơn ezetimibe 10 mg, diện tích dưới đường cong (AUC) trung bình của ezetimibe toàn phần tăng khoảng 1,7 lần ở bệnh nhân suy gan nhẹ (điểm số Child-Pugh 5 hoặc 6) so với các đối tượng khỏe mạnh. Trong một nghiên cứu đa liều, 14 ngày (10 mg/ngày) ở những bệnh nhân suy gan trung bình (điểm số Child-Pugh 7-9), AUC trung bình của ezetimibe toàn phần tăng khoảng 4 lần vào ngày thứ nhất và ngày thứ 14 so với các đối tượng khỏe mạnh. Không cần điều chỉnh liều đối với bệnh nhân suy gan nhẹ. Do chưa rõ ảnh hưởng của nồng độ ezetimibe tăng ở những bệnh nhân suy gan trung bình đến nặng (điểm Child-Pugh > 9), không khuyến cáo dùng ezetimibe cho những bệnh nhân này (xem Cảnh báo và thận trọng, Suy gan).
Atorvastatin
Nồng độ của atorvastatin và các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó trong huyết tương tăng lên rõ rệt (khoảng 16 lần về Cmax và khoảng 11 lần về AUC) ở những bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính do rượu (Child-Pugh B).
Trẻ em
Ezetimibe
Dược động học của ezetimibe là tương đương giữa trẻ em ≥ 6 tuổi và người lớn. Chưa có dữ liệu dược động học ở nhóm bệnh nhân trẻ em < 6 tuổi.
Atorvastatin
Chưa có dữ liệu dược động học ở nhóm bệnh nhân trẻ em.
Người cao tuổi
Ezetimibe
Nồng độ trong huyết tương của ezetimibe toàn phần ở người cao tuổi (≥ 65 tuổi) cao hơn khoảng 2 lần so với người trẻ tuổi (18-45 tuổi). Sự giảm LDL-C và hồ sơ về an toàn tương đương giữa các đối tượng cao tuổi và trẻ tuổi được điều trị bằng ezetimibe.
Atorvastatin
Nồng độ của atorvastatin và các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó trong huyết tương ở người cao tuổi khỏe mạnh cao hơn ở người trẻ trong khi ảnh hưởng trên lipid tương đương ảnh hưởng được thấy ở nhóm bệnh nhân trẻ hơn.
Chủng tộc
Dựa trên phân tích tổng hợp của các nghiên cứu dược động học với ezetimibe, không có sự khác biệt về dược động học giữa người da đen và da trắng.
Giới tính
Ezetimibe
Nồng độ của ezetimibe toàn phần trong huyết tương ở phụ nữ hơi cao hơn (< 20%) so với nam giới. Mức giảm LDL-C và hồ sơ về an toàn là tương đương giữa nam giới và phụ nữ được điều trị bằng ezetimibe.
Atorvastatin
Nồng độ của atorvastatin và các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó ở phụ nữ khác với ở nam giới (phụ nữ: cao hơn khoảng 20% về Cmax và thấp hơn khoảng 10% về AUC). Những khác biệt này không có ý nghĩa lâm sàng, dẫn đến không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng về ảnh hưởng đến lipid ở nam giới và phụ nữ.
Thẩm phân máu
Atorvastatin
Trong khi chưa có các nghiên cứu được thực hiện ở những bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối, thẩm phân máu không được dự kiến là sẽ làm tăng đáng kể độ thanh thải của atorvastatin do thuốc được gắn kết mạnh với protein huyết tương.
DỮ LIỆU TỪ CÁC THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG
Phòng ngừa biến cố tim mạch
Trong một nghiên cứu về ezetimibe/simvastatin, đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với hoạt chất (IMPROVE-IT), 18.144 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu trong vòng 10 ngày nhập viện do hội chứng mạch vành cấp (ACS; hoặc nhồi máu cơ tim [MI] cấp hoặc đau thắt ngực không ổn định [UA]). Tất cả bệnh nhân được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1 dùng ezetimibe/simvastatin 10/40 mg (n = 9.067) hoặc simvastatin 40 mg (n = 9.077) và được theo dõi trong thời gian trung vị 6 năm.
Các bệnh nhân có tuổi trung bình là 63,6 tuổi; 76% là nam giới, 84% là người da trắng và 27% là người mắc bệnh đái tháo đường. Giá trị LDL-C trung bình tại thời điểm biến cố được xác nhận đáp ứng tiêu chuẩn vào nghiên cứu là 80 mg/dL (2,1 mmol/L) đối với những bệnh nhân đang điều trị thuốc hạ lipid (n=6.390) và 101 mg/dL (2,6 mmol/L) đối với những bệnh nhân không điều trị thuốc hạ lipid trước đó (n=11.594). Trước khi nhập viện do biến cố hội chứng mạch vành cấp theo như tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu, 34% bệnh nhân đang điều trị bằng statin. Tại thời điểm 1 năm, LDL-C trung bình đối với những bệnh nhân tiếp tục điều trị là 53,2 mg/dL (1,4 mmol/L) đối với nhóm dùng ezetimibe/simvastatin và 69,9 mg/dL (1,8 mmol/L) đối với nhóm dùng simvastatin đơn trị liệu.
Kết cục chính là tiêu chí phối hợp gồm tử vong do bệnh tim mạch, biến cố mạch vành nặng (MCE; được định nghĩa là nhồi máu cơ tim không gây tử vong, đau thắt ngực không ổn định cần phải nhập viện, hoặc bất kỳ thủ thuật tái phân bố động mạch vành nào xảy ra ít nhất 30 ngày sau khi được phân nhóm điều trị ngẫu nhiên) và đột quỵ không gây tử vong. Nghiên cứu đã chứng minh rằng điều trị bằng ezetimibe/simvastatin mang lại lợi ích gia tăng trong việc giảm tiêu chí chính phối hợp bao gồm tử vong do bệnh tim mạch, biến cố mạch vành nặng và đột quỵ không gây tử vong so với điều trị bằng simvastatin đơn độc (giảm nguy cơ tương đối là 6,4%, p = 0,016). Tiêu chí chính xảy ra ở 2.572 trong số 9.067 bệnh nhân (tỷ lệ Kaplan-Meier [KM] lúc 7 năm là 32,72%) ở nhóm dùng ezetimibe/simvastatin và xảy ra ở 2.742 trong số 9.077 bệnh nhân (tỷ lệ KM lúc 7 năm là 34,67%) ở nhóm dùng simvastatin đơn độc. (xem Hình 1 & Bảng 1). Lợi ích gia tăng này được dự kiến là sẽ tương tự với việc dùng đồng thời ezetimibe và atorvastatin. Tổng tỷ lệ tử vong là không thay đổi trong nhóm có nguy cơ cao này.
Có một lợi ích tổng thể cho tất cả các trường hợp đột quỵ; tuy nhiên, có một sự gia tăng nhỏ không đáng kể trong đột quỵ xuất huyết ở nhóm dùng ezetimibe-simvastatin so với nhóm dùng simvastatin đơn độc. Nguy cơ đột quỵ xuất huyết ở nhóm dùng ezetimibe kết hợp với các statin có hiệu lực cao hơn trong các nghiên cứu dài hạn chưa được đánh giá.
Hiệu quả điều trị của ezetimibe/simvastatin nói chung phù hợp với kết quả tổng thể ở nhiều nhóm, bao gồm giới tính, tuổi, chủng tộc, tiền sử bệnh đái tháo đường, nồng độ lipid ban đầu, liệu pháp statin trước đó, đột quỵ trước đó, và tăng huyết áp.
- xem Hình 1 & Bảng 1.

